Thường huấn
Lao động trong đời sống đan tu
LAO ĐỘNG TRONG ĐỜI SỐNG ĐAN TU
M. Lazarô Nguyễn Hưng Quyền
Dẫn nhập
Linh đạo đan tu Biển Đức - Xitô là một trong những con đường thiêng liêng dẫn đưa con người trở về với Thiên Chúa dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần. Con đường ấy được xây dựng trên hai nền tảng thiết yếu là cầu nguyện và lao động (ora et labora). Nếu cầu nguyện là thực hành cốt yếu của ơn gọi đan tu chiêm niệm, thì lao động được coi như là “lực đối trọng” giúp đời sống của các đan sĩ được quân bình, hài hoà và cân bằng. Không ai có thể phủ nhận vai trò và ý nghĩa của lao động trong đời sống con người. Dù ở ơn gọi hay bậc sống nào, hoặc ở bất cứ thời đại nào, cuộc sống con người vẫn gắn liền với lao động. Trong kho tàng ca dao, tục ngữ, cha ông ta cũng đề cao tinh thần lao động trong cuộc sống như: “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”; “có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần tới cho”. Có thể nói, lao động là một trong những nét phân biệt giữa con người với tất cả mọi thụ tạo hữu hình. Nhờ lao động, con người xây dựng cuộc sống của mình và xã hội, và qua đó thể hiện được phẩm chất nội tại của mình. Chính vì vậy, trong thông điệp “lao động của con người”, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa trong thế giới hữu hình và được chỉ định làm chủ trái đất trong thế giới ấy, do đó ngay từ đầu con người được mời gọi lao động”. Lao động trong đời sống con người nói chung đã mang ý nghĩa và vai trò như thế, thì việc lao động của những ai sống đời thánh hiến đan tu còn mang một ý nghĩa nội tại thiêng liêng và sâu xa hơn. Lao động là một phương thế hữu hiệu giúp các đan sĩ tiến đến gần hơn với Thiên Chúa, “lao động để thánh hoá bản thân, mưu ích cho các linh hồn”. Qua bài viết này, con muốn tìm hiểu về nguồn gốc, vai trò và ý nghĩa của lao động trong đời sống đan tu, nhờ đó mỗi người chúng ta có thể rút ra những bài học cần thiết cho bản thân, để ngày càng dấn thân trong ơn gọi đan tu cách triệt để hơn, hầu đem lại nhiều hoa trái thiêng liêng cho mình và mọi người.
1. Lao động là gì?
Theo từ điển Tiếng Việt, lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra các loại sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội[1]. Theo định nghĩa này, mục đích mà việc lao động nhắm tới là tạo ra sản phẩm để thoả mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
Còn theo từ điển Công giáo của Hội đồng Giám mục Việt Nam, lao động là những hoạt động chân tay hoặc trí óc để phục vụ con người và xã hội. Theo định nghĩa này, mục đích mà việc lao động nhắm tới là để phục vụ, đó là mục đích mà Giáo Hội muốn các Kitô hữu hướng đến. Và từ điển Công giáo còn nói thêm: “Lao động là bổn phận của con người, vì qua đó, họ cộng tác với Thiên Chúa trong công trình tạo dựng và làm chủ trái đất (x. St 1,28). Qua lao động con người phát huy hồng ân và tài năng đã lãnh nhận (x. GLHTCG, 2172). Lao động đem lại của cải, chống lại sự nghèo đói, và góp phần xây dựng, phát triển xã hội, kinh tế, văn hoá và luân lý”[2].
Như vậy, có thể định nghĩa lao động Kitô giáo qua bốn đặc tính: tiếp nối công trình tạo dựng của Thiên Chúa, tạo ra của cải vật chất để phục vụ các nhu cầu của con người, thực hiện hành vi bác ái qua việc giúp đỡ tha nhân và là phương thế để thánh hoá bản thân (x. GLHTCG 2426 - 2427). Khi trực tiếp thực hiện việc lao động, con người, một cách nào đó, đã cộng tác với Thiên Chúa, Đấng làm việc không ngừng trong sự sáng tạo và quan phòng vũ trụ vạn vật.
2. Thiên Chúa – Đấng không ngừng làm việc
Lao động là đề tài đầu tiên được đề cập đến trong Kinh Thánh. Trình thuật về sáng tạo được ghi lại trong sách Sáng Thế ngay ở chương đầu tiên, kể lại việc Thiên Chúa tạo dựng trời đất và muôn vật, mà đỉnh cao là ngày thứ sáu Thiên Chúa lấy bùn đất nặn ra con người (St 2,7). Theo khoa học hiện đại, vũ trụ vẫn không ngừng giãn nở với tốc độ ánh sáng, điều đó cho thấy rằng cho đến nay, Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm việc để gìn giữ và làm cho vũ trụ này đi tới chỗ hoàn hảo. Và ở những chương đầu tiên, Kinh Thánh đã đề cao vai trò cộng tác của con người trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa: “Thiên Chúa ban phúc lành cho họ và Thiên Chúa phán với họ: hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất” (St 1,28). Như thế, ngay từ đầu đã có lao động vì lao động phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng cho đến nay vẫn không ngừng làm việc, và qua lao động con người được trực tiếp cộng tác vào công trình tạo dựng của Thiên Chúa.
Trình thuật sách Sáng Thế tiếp tục mặc khải cho chúng ta thấy sự khốn khổ của con người sau khi hai ông bà nguyên tổ phạm tội. Công việc bá chủ cá biển, chim trời của con người trở nên khó khăn hơn, họ phải lao động cực nhọc để có của nuôi thân, để sống và tồn tại: “Thiên Chúa phán: ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất ngươi đã được lấy ra” (St 3,19). Từ đây con người dễ mang ác cảm về lao động, cho rằng lao động như một hình phạt. Thực ra, từ nguyên thuỷ, bản chất của lao động là rất tốt đẹp. Dù tổ tiên con người phạm tội như thế, nhưng lời mời gọi họ canh tác và chăm sóc công trình tạo dựng vẫn không thay đổi. Và như vậy, lao động là niềm vinh dự được cùng sáng tạo, cùng làm việc với Thiên Chúa. Và trong suốt dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa vẫn đồng hành và hoạt động cùng với con người. Ngài cùng đi với họ trong suốt bốn mươi năm trong sa mạc cho đến khi vào Đất Hứa. Thời giao tranh, Ngài cùng Israel chiến đấu để chống lại kẻ thù tấn công. Vào thời bình, Ngài ban cho con người thời tiết thuận hoà để họ canh tác đất đai, chăn nuôi súc vật. Con người sẽ không thể làm được gì nếu không có sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Và khi Thiên Chúa thực hiện lời hứa với các Tổ phụ, là sẽ cho Ngôi Hai xuống thế làm người để cứu độ nhân loại, Chúa Giêsu đã sinh ra trong một gia đình cần lao. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Cho đến nay, Cha tôi làm việc thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17). Cả cuộc đời Đức Giêsu là chuỗi ngày hoạt động. Ba mươi năm sống ẩn dật tại xưởng mộc Nazaret, Chúa Giêsu đã làm nghề thợ mộc như cha nuôi của Ngài là thánh Giuse. Đến nỗi sau này khi nói về Chúa Giêsu, người ta nghĩ đến hình ảnh của một bác thợ: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria sao?” (Mc 6,3). Đến ba năm cuối đời, Đức Giêsu ý thức rất rõ sứ mạng cao cả của mình, nên Ngài làm việc không ngơi nghỉ: “Tôi còn phải rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho nhiều thành khác nữa, vì tôi được cử đến chính vì mục đích đó” (Lc 4,43). “Đức Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 9,35). “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế” (Cv 10,38). Chúa Giêsu đã nên gương mẫu cho cuộc đời cần lao. Như vậy, khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu đã chia sẻ trọn vẹn kiếp người như chúng ta. Sống trong thân phận con người, chịu sự tác động của thế giới vật chất, Chúa Giêsu cũng phải “đổ mồ hôi, sôi nước mắt”, phải ra sức làm việc để mưu sinh như tất cả mọi người. Đúng như lời diễn giải của thánh Augustinô: “Chúa Giêsu chẳng mất gì về thần tính, mà cũng chẳng thiếu chút gì về nhân tính”. Chúa Giêsu đã làm việc như một người bình thường, Ngài đã thánh hoá lao công và làm cho lao động mang một giá trị vĩnh cửu. Vậy, lao động trong tu trào đan tu diễn tiến như thế nào?
3. Lao động trong tu trào Đan tu
3.1. Những thế kỷ đầu
Trước thời của thánh Biển Đức, ở Đông phương cũng như ở Tây phương, chúng ta nhận thấy tu trào đan tu Kitô giáo, sau một thời gian do dự, đã lựa chọn và quý chuộng sự làm việc. Ở một vài nơi, đan sĩ dường như bị hoàn toàn thu hút bởi lý tưởng say mê cầu nguyện tới mức họ không còn nghĩ gì đến việc lao động. Vào thế kỷ thứ IV ở Syria, sống bằng của bố thí là dấu chỉ của sự trọn hảo và tin cậy vào Chúa quan phòng. Những người theo chủ trương lạc giáo duy cầu nguyện là những người tiêu biểu cho sự cực đoan của phong trào này; họ từ chối làm việc, viện cớ dành thời giờ để cầu nguyện liên lỉ. Cùng thời điểm này ở Đông Phương, công việc duy nhất mà thánh Martin chấp thuận cho các môn đệ của ngài được làm là sao chép các thủ bản. Mà công việc này chỉ dành cho những người mới nhập tu, còn những đan sĩ kỳ cựu hơn thì dành trọn thời giờ cho việc cầu nguyện. Các đan sĩ thành Cathage cũng muốn dành trọn thời giờ để cầu nguyện, họ tin rằng Cha trên trời sẽ cho họ ăn, cho họ mặc như chim trời và hoa cỏ ngoài đồng mà không cần phải lao động (Mt 6,24-34).
Thánh Augustinô đã mạnh mẽ bác bỏ những lập luận sai lầm đó, ngài chủ trương phải dung hoà giữa cầu nguyện và lao động nên đã viết cuốn De Opere Monachorum (Về sự làm việc của đan sĩ) để khuyến khích các đan sĩ làm việc. Cũng như thánh Augustinô, thánh Gioan Cassien cũng khuyến khích các đan sĩ làm việc. Lời khuyến khích của ngài được hưởng ứng đến độ các đan sĩ đan viện Lérins vừa hăng say cầu nguyện, vừa không ngưng nghỉ làm việc chân tay. Tinh thần ấy còn lan rộng đến hàng Giáo sĩ địa phương.
Ở Đông Phương, phản ứng chống lại tình trạng nhàn rỗi cũng không kém phần quyết liệt. Các Giáo phụ rừng vắng không ngần ngại theo đúng lời của thánh Phaolô: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn” (2Tx 3,10) và cắt phần lương thực của những ai muốn thoả mãn nhu cầu cuộc sống mà không muốn làm việc. Các thánh Antôn, Pacôme và Basiliô truyền dạy môn đệ của các ngài không những làm việc để có của nuôi thân, mà còn có dư ra để làm phúc bố thí. Theo gương các nhà lập pháp nổi tiếng của đời sống đan tu, các tu luật trong những thế kỷ tiếp theo đều coi lao tác như là yếu tố quan trọng, vừa giúp cá nhân nên trọn lành vừa giúp anh em phục vụ lẫn nhau. Như tu luật của thánh Basiliô ở Đông Phương hay tu luật của thánh Isidore ở Tây Ban Nha, và nổi bật nhất là “Luật Đan Sĩ” (Regula Monachorum) của thánh Biển Đức.
3.2. Theo Tu luật thánh Biển Đức
Năm 525, thánh Biển Đức đã rời Subiacô đến lập đan viện tại Monte Cassinô, chính tại đây ngài đã viết nên “Luật Đan Sĩ” như một báu vật trối lại cho các môn sinh. Có thể nói tu luật của thánh Biển Đức được rút tỉa và tổng hợp từ những giá trị tinh tuý của các vị tiền bối như thánh Pacôme, thánh Basiliô, thánh Augustinô. Đây cũng là bản đúc kết kinh nghiệm của 40 năm làm viện phụ. Vì thế, Tu luật của thánh Biển Đức được coi là quân bình nhất trong các tu luật thời cổ. Sự quân bình đó được thể hiện rõ trong cách sắp xếp sinh hoạt cộng đoàn. Ba phận vụ chính: thần vụ, lao động chân tay, học hành chiếm số thời giờ ngang nhau trong một ngày sống của đan sĩ.
Vì đã kinh nghiệm nếp sống của các đan sĩ thời ngài, họ thích sống lang thang không muốn ở yên một chỗ để mưu sinh, trái lại cứ thích sống nhờ vào người khác. Từ tình trạng đó, thánh nhân đã quy tụ các đan sĩ lại thành từng cộng đoàn, có lời khấn vĩnh cư để không những họ phải tự làm việc để mưu sinh mà còn có thể chia sẻ cho người nghèo thành quả lao động của mình.
Ngay từ những chương đầu và trong suốt bản tu luật của mình, thánh Biển Đức đã nhiều lần dạy về việc lao động hằng ngày, gồm cả những việc lao động chân tay và lao động trí óc. “Hàng ngày, hãy lấy việc làm mà chu toàn huấn lệnh Thiên Chúa” (TL 4,63). Do đó, “chúng ta hãy lấy việc làm mà dựng thành cái thang mà leo lên” (TL 7,6). Ở bậc khiêm nhường thứ 6, Cha thánh nói: “Đan sĩ bằng lòng với tất cả những gì hèn kém và tồi tệ nhất. Trong mọi công việc được giao cho, họ tự coi mình là một nhân công vụng về và bất xứng” (TL 7,49).
Thánh Biển Đức đã dành chương 48 trong Tu luật để nói về việc lao động hằng ngày, ngay câu đầu tiên ngài nói: “Ở nhưng là thù địch của linh hồn, thế nên anh em phải có giờ làm việc chân tay, có giờ đọc sách” (TL 48,1). Thánh Biển Đức cũng ý thức rằng lao động đôi khi quá khó nhọc, nhưng điều đó là một phần trong những khó khăn mà tu luật mời gọi hãy quảng đại thắng vượt nhờ kết hiệp với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô để tỏ lòng tuân phục và khiêm nhường: “Nếu vì nhu cầu địa phương hay hoàn cảnh khó nghèo đòi hỏi anh em phải gặt hái, đừng nên buồn phiền” (TL 48,7). Tuy vậy, thánh Biển Đức khuyên các con cái của mình đừng quá ham mê công việc mà sao lãng các bổn phận khác, “nhưng dù sao, mọi sự phải giữ chừng mực, vì còn có những kẻ yếu sức” (TL 48,9).
Qua những điều nói trên cho chúng ta thấy, với thánh Biển Đức, lao động trước hết không chỉ để sinh sống, nhưng còn mang ý nghĩa khác cao hơn, đó là chia sẻ với anh em đồng loại khó nghèo, giúp đan sĩ quân bình, thăng tiến trong đời sống thiêng liêng. Mặt khác, lao động còn biểu lộ sự hiệp thông bác ái huynh đệ và cộng tác giữa anh em với nhau trong cộng đoàn. Làm việc là điều cần thiết để khỏi phụ thuộc vào sự giúp đỡ của ân nhân. Các đan sĩ làm việc để tự nuôi sống bản thân và cộng đoàn, như thánh Phaolô nhắn nhủ các tín hữu Thêxalônica: “Chúng tôi đã chẳng ăn bám ai, trái lại đêm ngày đã làm lụng vất vả, để khỏi nên gánh nặng cho người nào trong anh em” (2Tx 3,8). Điều này giải thích câu nói của thánh Biển Đức: “Chỉ khi nào ta sống bằng thành quả lao động của mình như các Tổ phụ và như các Tông đồ, khi ấy chúng ta mới thật là đan sĩ” (TL 48,8).
4. Ý nghĩa của lao động đan tu
4.1. Hành vi thờ phượng
Các đan sĩ được dâng hiến một cách trực tiếp hoặc gián tiếp cho việc thờ phượng Thiên Chúa. Bởi đó, lao động đan tu có giá trị bởi mối liên hệ giữa nó với phụng vụ. Nó cung cấp dưỡng chất cho cộng đoàn ngợi khen và thờ lạy Thiên Chúa. Nó chuẩn bị những lễ vật dâng lên Thiên Chúa trong bí tích Thánh Thể. Tất cả mọi thành viên trong cộng đoàn cộng tác vào việc thờ phượng bằng việc lao động chân tay hằng ngày của họ. Lao động cũng là cầu nguyện nên các đan sĩ hãy coi đó là một vinh dự, một niềm vui vì qua lao động họ trực tiếp cộng tác vào công việc sáng tạo của Thiên Chúa. Hơn thế nữa, khi chúng ta kết hiệp với Đức Kitô, chúng ta có thể cứu độ thế giới bằng chính công việc của chúng ta. Chúng ta có thể thánh hiến thế giới lại cho Thiên Chúa, và nhờ đó chuẩn bị một thế giới mới sẽ tồn tại khi Thiên Chúa ngự đến trong vinh quang. Trong Thánh lễ mỗi ngày, hiệp với hiến lễ của Đức Giêsu trên thập giá, chúng ta dâng lên Thiên Chúa những lao công của con người, như lời nguyện mà vị tư tế đọc khi chuẩn bị lễ vật: “Lạy Chúa là Chúa Cả trời đất, chúc tụng Chúa đã rộng ban cho chúng con bánh này là hoa mầu ruộng đất và công lao của con người, chúng con xin dâng lên Chúa để trở nên bánh trường sinh cho chúng con”. Với việc dâng của lễ lên Thiên Chúa của lao công, chúng ta tư tưởng rằng con người cộng tác vào chính công việc cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã mang lại cho lao động một giá trị vô song bằng cách chính mình Ngài đã đem hai bàn tay ra làm việc tại thành Nazareth. Thánh Biển Đức đã mượn lời của thánh Phêrô để nói đến chân giá trị của công việc khi kết thúc chương nói về những anh em thạo nghề trong đan viện: “Để trong mọi sự Thiên Chúa được tôn vinh” (1Pr 4,11).
4.2. Tạo thế quân bình
Lao động là phương thế hữu hiệu giúp các đan sĩ sống đời cầu nguyện được quân bình, hài hoà và cân đối. Chính vì thế mà thánh Biển Đức đã phân chia thời gian sống trong ngày của đan sĩ có thời giờ cho việc lao động ngang với thời giờ dành cho việc cầu nguyện. Hiểu được điều này, Cha Tổ phụ Biển Đức Thuận cũng đã nhắc nhở: “Ở nhà Dòng này mà không cầu nguyện thì hoá ra một nhà nông phu”, còn nếu không lao động thì là sống trên mây. Cầu nguyện, lao tác và học hành dù khác biệt nhau nhưng bổ trợ cho nhau. Một sự chừng mực như thế tạo nên một sự hài hoà, hợp nhất con người và cho phép các đan sĩ quy hướng tất cả mọi sinh hoạt về Thiên Chúa. Thánh Biển Đức tóm tắt ở đây trọn cả truyền thống đan tu vốn không ngừng tìm kiếm sự quân bình trong đời sống, nhờ sự luân phiên cầu nguyện, đọc sách và lao động chân tay. Như vậy, việc lao động diễn ra dưới sự hiện diện của Thiên Chúa, nhằm phục vụ Chúa Kitô trong anh em nên nó thấm đẫm lời cầu nguyện. Theo các Giáo phụ, công việc đích thực của đan sĩ là không ngừng nỗ lực quy hướng trọn cả con người về Thiên Chúa. Để làm được điều đó, các đan sĩ phải là những người say mê cầu nguyện và cũng mến chuộng việc lao động. Cầu nguyện bằng cách lao động và lao động trong tinh thần cầu nguyện.
4.3. Thực thi đức ái
Nhờ lao động, các đan sĩ cụ thể hoá tình yêu Thiên Chúa bằng cách làm việc để phục vụ nhau. Vì qua lao động, chúng ta có cơ hội và phương tiện để thực thi đức ái với anh chị em của mình, như lời thánh Phaolô dạy: “Bằng mọi cách, tôi đã tỏ cho anh em thấy rằng: phải giúp đỡ người đau yếu bằng việc làm lụng vất vả như thế, phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Thánh Biển Đức đã nhìn lao động đan tu trước tiên theo phương diện đức ái, với hai khía cạnh là anh em phục vụ lẫn nhau và trợ giúp những người nghèo khổ. Đối với ngài, sự quan tâm giúp đỡ người nghèo là một trong những khí cụ để làm việc lành (TL 4,14-19). Thánh nhân muốn các đan sĩ sống bằng chính sức lao động của mình, để không phụ thuộc vào sự giúp đỡ của các ân nhân bên ngoài. Đan sĩ không để mình trở thành gánh nặng cho người khác, đồng thời có điều kiện đóng góp vào công cuộc truyền giáo, giúp đỡ lữ khách và người nghèo. Thánh Biển Đức cũng nhắc nhở các đan sĩ thực thi đức ái trong khi bán các sản phẩm: “Còn về giá cả, đừng để tật xấu hà tiện lẻn vào, nhưng luôn bán hạ giá hơn người đời một chút” (TL 57,7-8).
Việc bác ái không chỉ được thực thi ở bên ngoài đan viện, các công việc trong cộng đoàn cũng tạo cơ hội cho anh em thực thi bác ái huynh đệ với nhiều cách khác nhau. Lao động đan tu không nhắm vào lợi ích cá nhân nhưng nhắm tới lợi ích chung của cộng đoàn, nên lao động là phương tiện chắc chắn nhất để ra khỏi mình, để quên mình đi. Lao động là một cách thức xác thực nhất để gặp gỡ tha nhân, biểu hiện tình liên đới với nhau. Vì vậy, anh em được mời gọi hãy tương trợ lẫn nhau để không ai lẩm bẩm kêu ca, vì trong cộng đoàn “còn có những kẻ yếu sức” (TL 48,9) hầu mọi người đều có thể hân hoan làm việc và ngợi khen Thiên Chúa.
5. Bài học áp dụng
5.1. Không quá ham mê công việc
Tuy lao động mang nhiều ý nghĩa và thật sự cần thiết, nhưng lao động chỉ có ý nghĩa thực sự khi quy hướng về Thiên Chúa. Ngược lại, chỉ lo làm ăn mà quên mất mục đích tối hậu của lao động thì lại nguy hiểm. Vì thế, Đức Giêsu đã khuyến cáo chúng ta đừng quá ham công tiếc việc: “Anh em phải coi chừng, phải tránh mọi thứ tham lam, vì không phải dư của cải mà mạng sống con người được bảo đảm đâu” (Lc 12,15). Vì thế, mối bận tâm về công ăn việc làm và về của cải đời này không được lấn át việc tìm kiếm Nước Chúa và kho tàng đời sau: “Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
Thánh Biển Đức khuyên các đan sĩ của mình không quá ham mê công việc mà sao lãng các bổn phận khác, “nhưng dù sao, mọi sự phải giữ chừng mực” (Tl 48,9). Sự thái quá hoặc sự hăng say lao động không đúng lúc là một nguy cơ còn tai hại hơn là sự lười biếng. Thánh Gioan Cassien cũng cảnh báo rằng đôi khi đó là mưu chước của ma quỷ thúc giục làm việc, hầu làm kiệt sức anh em, khiến anh em đâm ra nản lòng. Lịch sử đan tu cho thấy vô số ví dụ, khi các đan sĩ quá ham mê làm việc khiến đan viện trở nên giàu có, rồi thì chiến đấu để gìn giữ và chiếm đoạt của cải là nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự quá ham mê làm việc trong đời tu đó là hám hư danh. Abraham Lincoln đã nói: “Ai cũng muốn được người ta khen mình”. Là con người, ai cũng muốn được người khác coi trọng, muốn được người khác đánh giá cao khả năng cũng như thành quả lao động của mình. Chính vì tâm lý đó nên nhiều người làm việc với mục đích chứng tỏ khả năng của mình, để lấy thành tích, để được tiếng khen, dần dà họ bị cuốn hút vào công việc đến nỗi sao lãng các bổn phận khác. Để công việc đem lại hiệu quả, chúng ta cần làm việc cách khoa học, sáng tạo, cần mẫn nhưng không quá ham mê chạy theo thành quả của việc làm. Cha Augustine Roberts khuyên rằng: “Các đan sĩ nên từ bỏ những tiêu chuẩn thành tích của thế gian, để chỉ cho thế gian thấy triều đại của Chúa Kitô không ở trong thế gian này”[3].
Về vấn đề này, thật cần thiết để chúng ta nghe lại lời giáo huấn của Cha Tổ phụ Biển Đức Thuận: “Chúng ta hãy nhớ, chớ khá quên, là chớ có mê làm việc quá. Chúng ta đã bỏ mọi sự thế gian mà vào đây, cho được tìm Chúa, chớ có điên cuồng dại dột, chớ có mê làm việc quá lắm. Đến giờ phải làm thì làm, làm cho siêng, làm cho tử tế, rồi thì thôi. [...] Vậy chớ có mê làm việc quá. Đó là việc thiệt hại cả thể, đáng cho chúng ta lấy làm buồn hơn cả. Chúng ta chỉ lo một điều là kính mến Chúa, phải ra sức làm đẹp lòng Chúa mà thôi. Chớ có lấy điều chi khác làm trọng làm cần, vì là vô ích chóng qua hết thảy, trừ ra một sự kính mến Chúa đáng cho chúng ta chăm lo mà thôi” (Lời giáo huấn, số 129).
5.2. Không lười biếng làm việc
Kinh nghiệm dạy chúng ta rằng công việc luôn luôn là yếu tố của cuộc sống mà chúng ta được mời gọi bắt chước gương làm việc của Đức Kitô. Bởi đó, hãy nhìn nó như là một nơi đặc biệt để gặp gỡ với ý muốn cứu độ và biến đổi của Thiên Chúa. Lao động không chỉ là phương tiện giúp cân bằng tâm lý, nhưng còn giúp làm phong phú và nuôi dưỡng đời sống đức tin. Lao động là điều kiện thiết yếu cho sự phục vụ cộng đoàn, nuôi dưỡng các hoạt động trí thức, bảo tồn vẻ đẹp của đan viện, để phát triển khả năng của con người. Lao động là điều có ích, giúp chúng ta cả phần hồn lẫn phần xác. Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong một thời đại đề cao vật chất và tôn sùng việc hưởng thụ, tiêu dùng. Ai cũng thích “việc nhẹ lương cao”, ai cũng muốn hưởng thành quả mà không muốn bỏ sức lực và thời gian để làm việc. Sống trong một xã hội công nghệ hoá, tự động hoá và hiện đại hoá dường như làm cho nhiều người nhất là những người trẻ lười làm việc hơn. Hầu như ai cũng muốn được người khác phục vụ mình, chứ không muốn mình phục vụ người khác. Cách suy nghĩ và lối sống đó ít nhiều đã len lỏi và tác động đến những người sống đời thánh hiến hôm nay. Biểu hiện là khi làm việc thì chưa có tinh thần hăng say, làm chỉ để hết thời gian rồi nghỉ còn kết quả ra sao thì bỏ mặc cho những người chịu trách nhiệm; chưa có tinh thần quảng đại, hy sinh để đón nhận những công tác được cộng đoàn trao phó mà luôn tìm cách tránh né, thoái thác; làm việc trong sự càm ràm, phàn nàn hoặc làm với thái độ “chẳng đặng đừng”, nhất là khi làm những việc mình không thích, làm cùng những người mình không ưa.
Cha Tổ phụ Biển Đức Thuận đã dạy rằng: “Trong chúng ta ai lấy việc xác làm nặng nề, buồn bực, chán ngán, thì ở nhà dòng này không được. Ở nhà dòng này phải làm việc xác, ai theo sức nấy. Việc xác là việc đền tội, và cũng là việc các Thánh đã làm. Sự ăn chay cũng là việc đền tội, nhưng không bằng việc xác. Khi ở trong nhà thờ miệng nói: Lạy Chúa, con kính mến Chúa! Đến khi ra làm việc, phải ép mình chịu khó một chút, lại chán ngán, buồn phiền. Như vậy chưa phải là kính mến Chúa thật đâu.[...] Vậy việc xác là việc thế gian ghê tởm lắm, họ chỉ lo tìm đàng mà tránh cho khỏi, khỏi chừng nào thì hay chừng ấy. Phần chúng ta, chớ ăn ở yểu điệu, nhát gan” (Lời giáo huấn, số 139).
Một lời khuyên khác của Cha Augustine Roberts: “Đừng xin phép nghỉ việc chỉ vì những lý do cỏn con. Cảm lạnh hay nhức đầu không phải là lý do đủ để xin nghỉ việc. Hãy cởi mở với các đấng bề trên về vấn đề này, nhưng cũng nghĩ tới rất nhiều công nhân trêxb n khắp thế giới không thể nghỉ việc chỉ vì nhức đầu, sổ mũi chút chút như vậy”[4].
5.3. Làm việc trong sự khiêm tốn, vui tươi
Ở Tu Luật chương 57, thánh Biển Đức cảnh báo một mối nguy rình rập những người có năng khiếu và thạo nghề đó là tính kiêu ngạo: “Nếu trong Đan viện có anh em thạo nghề, họ hãy hành nghề với tất cả lòng khiêm tốn. Nếu ai trong họ kiêu căng cậy mình biết nghề, tưởng mình làm lợi cho Đan viện, người ấy sẽ bị ngưng việc, không được làm nữa, trừ khi đã khiêm tốn và Viện phụ truyền làm lại”(TL 57,1-3). Lẽ dĩ nhiên trong bất kì công việc nào của cộng đoàn cũng sẽ có người này làm tốt hơn người kia, nhưng đừng vì thế mà kiêu căng rồi khinh chê những anh em khác. Vì tất cả những gì chúng ta có như sức khoẻ, sự hiểu biết hay khả năng làm việc này việc nọ đều là do ơn Chúa ban. Sở dĩ Thiên Chúa tạo ra những sự khác biệt ở nơi con người chính là để chúng ta bổ trợ và bù đắp cho nhau. Vậy chúng ta hãy chu toàn mọi việc bổn phận trong tinh thần phục vụ, khiêm tốn và vui tươi. Không tự hào khoe khoang về khả năng của mình, không phàn nàn, càm ràm và cũng không phân bì, ganh tị với công việc của anh em khác: “Trong mọi công việc được giao cho, hãy tự coi mình là một nhân công vụng về và bất xứng” (TL 7,49). Đồng thời chúng ta cũng hãy biết tìm niềm vui trong công việc, kể cả trong những công việc xem ra vặt vãnh và tẻ nhạt nhất. Để làm được điều đó, chúng ta cần xin Chúa giúp sức, không ngừng học hỏi phương pháp làm việc cũng như kinh nghiệm từ người khác. Niềm vui của Đan sĩ là biết đặt tình yêu vào việc làm. Một tinh thần làm việc hăng say, vui tươi sẽ vực dậy một thể xác yếu nhược.
Kết luận
Lao động được coi như là hoạt động tiêu biểu nhất của con người. Nó là mảnh đất cho các giá trị luân lí và xã hội lớn lên một cách mạnh mẽ. Bởi vì lao động bao gồm trong đó sự kiên nhẫn, tinh thần trách nhiệm, khôn ngoan, kỷ luật, khiêm tốn, từ bỏ lợi ích của bản thân để hướng tới lợi ích chung của cộng đoàn. Là những người bước theo Chúa Kitô trong lý tưởng Đan tu Chiêm niệm, các Đan sĩ cũng được mời gọi tham dự vào công trình sáng tạo và cứu chuộc qua những công việc hằng ngày của mình. Nhưng việc lao động của người Đan sĩ không tìm kiếm những thực tại chóng qua ở đời này, nhưng hướng đến thực tại vô hình vĩnh cửu ở đời sau. Như chính Chúa Giêsu đã dạy: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6,27). Để tóm kết những chia sẻ của mình, con xin mượn lời của ĐTC Phanxicô nhắn gửi các Đan sĩ: “Các vị Thánh lớn trong đời sống chiêm niệm đã cảnh tỉnh, đừng bao giờ để công việc bóp nghẹt tinh thần chiêm niệm. Đời sống của các con phải vừa nghèo khó trong tinh thần, vừa nghèo khó trong thực tế, cũng phải cần mẫn và chừng mực trong công việc [...] Phương châm “ora et labora” theo truyền thống Biển Đức vẫn luôn là nguồn cảm hứng cho các con và giúp các con tìm được sự cân bằng đúng đắn giữa việc tìm kiếm Đấng Tuyệt Đối và chu toàn các phận vụ thường nhật, giữa sự thinh lặng của chiêm niệm và sự gắng sức trong công việc” (Tông hiến Vultum dei quaerere, số 32).
Sách Tham Khảo:
- Viện Ngôn Ngữ Học, Chủ biên Gs. Hoàng Phê, Từ Điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức 2021.
- Hội đồng Giám mục Việt Nam, Ủy ban Giáo lý Đức tin, Ủy ban Từ vựng Công giáo, Từ Điển Công Giáo, Nxb Tôn giáo 2019.
- Augustine Roberts, OCSO, Đặt nền tảng trên Đức Kitô - Kim chỉ nam thánh hiến đan tu, dg. Gioan Tân Phan Văn Toàn, O.Cist., Nxb Đồng Nai 2021.
[1] Viện Ngôn Ngữ Học, Chủ biên Gs. Hoàng Phê, Từ Điển Tiếng Việt, Nxb Hồng Đức 2021, tr. 689.
[2] Hội đồng Giám mục Việt Nam, Ủy ban Giáo lý Đức tin, Ủy ban Từ vựng Công giáo, Từ Điển Công Giáo, Nxb Tôn giáo 2019, tr. 511.
[3] Augustine Roberts, OCSO, Đặt nền tảng trên Đức Kitô - Kim chỉ nam thánh hiến đan tu, dg. Gioan Tân Phan Văn Toàn, O.Cist., Nxb Đồng Nai 2021, tr. 115.
[4] Augustine Roberts, OCSO, Augustine Roberts, OCSO, Đặt nền tảng trên Đức Kitô - Kim chỉ nam thánh hiến đan tu, dg. Gioan Tân Phan Văn Toàn, O.Cist., Nxb Đồng Nai 2021, tr. 160.
-
Đào tạo người môn đệ trưởng thành sống tình huynh đệ và liên đới (02/12)
-
Đan sĩ Xitô Thánh Gia sống tinh thần hiệp hành “một đi chung cùng nhau” (DN 150) trong đời sống cộng đoàn, theo gương Cha tổ phụ Biển Đức Thuận (29/10)
-
Đan sĩ Xitô Thánh Gia sống tinh thần "Ad majorem Dei gloriam" theo gương Cha tổ phụ Biển Đức Thuận (16/09)
-
Vấn đề truyền thụ ngày nay (01/02)
-
NHỮNG THÀNH KIẾN TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN VÀ CÁCH KHẮC PHỤC (17/10)
-
TÌNH HUYNH ĐỆ KITÔ GIÁO TRONG FRATELLI TUTTI VÀ ĐỨC “KIÊM ÁI” CỦA MẶC TỬ (30/09)
-
THIÊN CHÚA QUA CẢM NGHIỆM CỦA CÁC NHÀ THẦN BÍ TIÊU BIỂU (22/07)
-
Ý NGHĨA VÀ CÙNG ĐÍCH CỦA VIỆC HỌC (19/05)
-
Học hỏi Thông điệp Fratelli Tutti: NHÂN PHẨM VÀ BÌNH ĐẲNG THEO THÔNG ĐIỆP FRATELLI TUTTI (19/11)
-
Đan Viện Phước Lý: QUY CHẾ HUẤN LUYỆN ĐAN TU (29/10)