Suy niệm

Chúa Nhật II Mùa Chay, B, Mc 9,2-10: Qua đau khổ tới hạnh phúc Nước Trời

Biến cố Hiển Dung của Chúa Giêsu hôm nay như là lời gọi mời đầy hy vọng cho mỗi người Kitô hữu chúng ta. Niềm tin của chúng ta đặt nơi lời hứa của Thiên Chúa, vinh quang Núi Tabor cho ta xác tín sự Phục Sinh, sự sống đời đời, niềm hạnh phúc đích thật mà Thiên Chúa là Cha nhân từ đã hứa ban cho chúng ta.

 

 

 

QUA ĐAU KHỔ TỚI HẠNH PHÚC NƯỚC TRỜI

(St 22,1-18; Rm 8, 31b-34; Mc 9,2-10)

 

M. Gioan Thánh Giá

 

Vào cuộc đời, ai cũng khao khát hạnh phúc, vì “niềm khao khát Thiên Chúa được ghi khắc trong trái tim con người… và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới gặp được chân lý và hạnh phúc mà họ không ngừng tìm kiếm[1]. Sự minh định của Giáo hội như thế cho chúng ta biết rằng chỉ nơi Thiên Chúa con người mới có hạnh phúc viên mãn  đích thật. Đặt trong bối cảnh và ý nghĩa biến cố hiển dung của Chúa Giêsu hôm nay sẽ vén mở cho chúng ta biết điều này. Vậy đâu là bối cảnh, ý nghĩa của cuộc hiển dung của Chúa? Chúng ta phải làm gì khi chiêm ngắm cuộc hiển dung của Chúa Giêsu để có được hạnh phúc thật?

 

Để hiểu được ý nghĩa cuộc hiển dung, chúng ta xem qua bối cảnh Lời Chúa theo thánh Marcô (Mc 9,2-12). Từ ngày ông Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Chúa Giêsu đã bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết, Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ… rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại ( x. Mt 16,21). Ông Phêrô khước từ lời loan báo đó, các môn đệ khác cũng không hiểu gì hơn. Chính trong bối cảnh này, đã xảy ra biến cố kỳ diệu là cuộc hiển dung của Chúa Giêsu trên núi Tabor, trước mặt ba nhân chứng do Người lựa chọn, là các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan. Dung mạo và y phục của Chúa Giêsu trở nên chói sáng, ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người, “nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” ( Lc 9,31). Một đám mây bao phủ các Ngài và có tiếng từ trời phán: “ Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).

 

Bối cảnh của Lời Chúa cho chúng ta biết vai trò của cuộc tử nạn: Muốn triều đại của Thiên Chúa đến và Con Người đến trong quyền năng thì “ trước hết con Người phải chịu nhiều đau khổ” (Lc 17,26). Chính Chúa Giêsu đã bộc lộ cho các môn đệ thấy thực tế cần thiết và phủ phàng: “Phần anh em, thì hãy ghi kỹ vào tai các lời này: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời” (Lc 9,44). Vậy, tử nạn là điều tiên quyết để Con Người đến trong vinh quang, nói lên đặc tính chức thiên sai của Ngài (x. Mt 16,13-22).

 

Như thế, điều kiện để các môn đệ bước vào vương quốc của Ngài sẽ không chỉ là gắn bó với Đức Giêsu mà còn là chia sẻ số phận tử nạn (Mc 10,39). Do đó, mối liên hệ của họ với Vương quốc Thiên Chúa cũng chính là mối liên hệ gắn bó họ với Đức Giêsu. Gắn bó với Ngài và ràng buộc với số phận của Ngài đến nỗi có thể mất mạng sống vì Ngài. Người ta sẽ lấy lại nó khi Ngài đến trog vinh quang (x. Mt 16,24-28).

 

Bên phía cái chết mà Chúa Giêsu đã từng loan báo, chúng ta thấy việc Phục Sinh được ghi trong chương trình cứu thế của Ngài: “Con Người phải chịu nhiều đau khổ và bị giết đi, và sau ba ngày sẽ sống lại.” (x. Mc 8,31; 9,31). Rất hiếm thấy tiên báo cái chết mà không báo luôn cả việc phục sinh. Trong ba lần tiên báo long trọng về cuộc tử nạn, các Tin Mừng Nhất Lãm ghi lại, sự hoàn tất nơi việc phục sinh ở đó Đức Giêsu mô tả số phận đời Ngài trong ba nhịp: Con Người bị ruồng bỏ bởi dân chúng, Ngài bị đánh đòn, nhục mạ và bị giết, ngày thử ba, Ngài sống lại. Loan báo việc sống lại ở cuối cuộc tử nạn, điều này không chỉ làm tô sáng bức tranh tối tăm, ảm đạm theo Đức Giêsu, phục sinh cùng với cái chết là thành phần của sứ vụ Ngài. Nó được ghi sẵn trong định mệnh Cứu Thế Thiên Sai của Ngài: Con Người phải chết và sống lại. Như thế, cái chết và sống lại là hai thực tại nối tiếp nhau, mà trong ý của Thiên Chúa chỉ là một, hai giai đoạn đặt trong cùng một vận mạng[2].

 

Như vậy, soi rọi dưới ánh sáng mầu nhiệm tử nạn và phục sinh, biến cố hiển dung cho biết Chúa Giêsu tỏ lộ vinh quang thần linh của mình trong chốc lát và như thế Người xác nhận lời tuyên xưng của ông Phêrô. Người cũng cho thấy rằng, để vào vinh quang của Người (x. Lc 24,26), Người phải đi qua thập giá tại Giêrusalem. Ông Môsê và ông Elia đã thấy vinh quang của Thiên Chúa trên núi; lề luật và các lời Tiên tri đã tiên báo những đau khổ của Đấng Mêsia[3]. Tại ngưỡng cửa đời sống công khai, Chúa Giêsu chịu phép rửa; tại ngưỡng cửa của cuộc Vượt Qua: Ngài có biến cố hiển dung.

 

Thánh Thomas Aquinô cho chúng ta biết thêm ý nghĩa cuộc hiển dung như thế này: Qua phép rửa của Chúa Giêsu, “mầu nhiệm cuộc tái sinh lần thứ nhất” được loan báo: đó là bí tích Rửa tội của chúng ta; Hiển Dung là “bí tích của cuộc tái sinh lần thứ hai”: đó là sự phục sinh riêng của chúng ta[4].

 

Như thế, ngay từ bây giờ, chúng ta được tham dự vào sự Phục Sinh của Chúa, nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trong các bí tích của Thân Thể Chúa Kitô. Biến cố Hiển Dung cho chúng ta được nếm trước việc ngự đến trong vinh quang của Chúa Kitô, Đấng “sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người “ ( x. Pl 3,21). Nhưng biến cố ấy cũng nhắc nhở chúng ta rằng: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” (Cv 14,22) [5].

 

Phụng vụ Thánh Thể cũng nêu bật ý nghĩa cuộc Hiển Dung trong đó liên hệ chặt chẽ, mật thiết với mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh. Lời kinh Tiền tụng Chúa nhật II Mùa chay, chúng ta đọc thấy như thế này: “Sau khi cho các môn đệ biết Người sẽ chịu chết thì trên núi thánh, Người đã tỏ bày vinh quang của Người cho các ông. Nhờ lề luật và các ngôn sứ làm chứng, Người đã cho các môn đệ hiểu rằng phải trải qua đau khổ mới có thể đạt tới vinh quang phục sinh[6].

 

Mỗi cuộc hành trình đức tin của người Kitô hữu trong cuộc đời luôn có dáng dấp của cuộc Hiển Dung. Thập giá và Phục Sinh luôn tiếp nối, hòa quyện với nhau ở từng giai đoạn cuộc đời. Ngay cả thiên nhiên vạn vật cũng gắn kết mật thiết trong vòng luân chuyển kỳ diệu của vũ trụ: phải có đông tàn giá rét mới có mùa xuân rực rỡ ấm áp, hạt lúa có vùi sâu, mục nát mới trổ sinh, đơm bông kết trái (x. Ga 12,20-34). Lời Thiên Chúa hứa thi ân giáng phúc cho Abraham sẽ không được thực hiện, nếu tổ phụ từ chối hiến tế con một làm lễ tế (x. St 22,1-18). Lời hứa cứu độ sẽ không được thực hiện, nếu Thiên Chúa không hiến tế Con Một Yêu Dấu cho loài người (x. Rm 8,31-34). Vậy người Kitô hữu khao khát tìm kiếm nếm hưởng hạnh phúc Nước Trời, cũng phải qua con đường thập giá như Đức Giêsu đã đi qua.

 

Biến cố Hiển Dung của Chúa Giêsu hôm nay như là lời gọi mời đầy hy vọng cho mỗi người Kitô hữu chúng ta. Niềm tin của chúng ta đặt nơi lời hứa của Thiên Chúa, vinh quang Núi Tabor cho ta xác tín sự Phục Sinh, sự sống đời đời, niềm hạnh phúc đích thật mà Thiên Chúa là Cha nhân từ đã hứa ban cho chúng ta. Bởi thánh ý của Thiên Chúa là Ngài đã chọn ta từ trước lúc vũ trụ được tạo thành (x. Ep1,3) và mong muốn mọi người được hưởng ơn cứu độ (x. 1Tm 2,4 ).

.

 

 

 

 

[1]  Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 27.

[2] x. Lm Hoàng Minh Tuấn, Đức Kitô Phục Sinh, tr. 26-28.

[3]  x. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 555.

[4]  Thomas Aquino, Tổng luận Thần Học, III, q. 45, a 4.

[5] x. Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 556.

[6]  Lễ Quy Roma, tr. 199.

 

 

Thiết kế Web : Châu Á