Bài giảng

Lễ Chúa Giáng Sinh - Thánh lễ Ban Ngày, Ga 1,1-18: “Đất với trời se chữ đồng”

Cũng như đất với trời chỉ có thể “se chữ đồng” khi Ngôi Lời trở thành người; thì cũng vậy, chúng ta chỉ có thể se chữ đồng với Hài Nhi Giêsu và với nhau, khi mỗi người biết quên mình vì ích chung, vì giao ước, vì tình yêu, vì sự dấn thân trong hành trình làm môn đệ Chúa, làm bạn đồng hành với anh chị em mình trong hành trình đức tin và hành trình ơn gọi.

 

 

ĐẤT VỚI TRỜI SE CHỮ ĐỒNG

(Is 57,7-10; Dt 1,1-6; Ga 1,1-18)

 

Lm. Quốc Vũ

 

1. Các bài đọc

 

1.1. Bài đọc I: Đẹp thay bước chân loan báo Tin Mừng

 

Cư dân thành Giêrusalem lúc bấy giờ đang nôn nóng đợi chờ sứ giả mang tin mừng đến. Tin mừng của sự bình an, niềm hạnh phúc và ơn cứu độ: «Đẹp thay bước chân người loan báo tin mừng, công bố ơn bình an, loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ» (c. 7). Tin mừng được loan đi chính là Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót, Người không còn bỏ mặc dân Người, bởi chính Người sẽ ngự đến để ban bình an và ơn cứu độ. Chính Người sẽ đi trước mặt dân, mà vung cánh tay quyền lực để giải thoát và che chở dân khỏi cảnh lưu đày, như Người đã từng đưa dân ra khỏi chốn nô lệ bên Ai Cập.

 

Khi đọc đoạn sách này trong bối cảnh lễ Giáng Sinh, Giáo hội muốn cho chúng ta thoáng thấy một niềm vui tròn đầy sẽ lại đến trong tương lai như một phép mầu: Thiên Chúa đã, đang và sẽ thực hiện chương trình của Người. Nơi hang đá Bêlem, nơi máng cỏ bò lừa, Người đã đến thế gian lần thứ nhất. Đó là khúc dạo đầu của niềm vui sẽ bừng nở trong khoảnh khắc trọng đại của ngày Người ngự giá quang lâm lần thứ hai.

 

1.2. Bài đọc II: Vào thời sau hết, Thiên Chúa nói với chúng ta qua Đức Kitô

 

Một trẻ sơ sinh không nói. Tuy nhiên, một bé em nghèo hèn nằm trong máng cỏ lại là lời nói hùng hồn nhất của Thiên Chúa; sau «Lời» này, Thiên Chúa không còn nói thêm lời nào nữa, bởi vì với sự giáng lâm của Đức Giêsu, thời gian đã đến thời viên mãn.

 

Trẻ sơ sinh này sẽ nắm trong tay trọn vương quyền, sẽ cai trị vũ trụ. Hình ảnh bé thơ yếu hèn nằm trong nôi là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa, và là sự phản ảnh vẻ huy hoàng của Người. Chính bé thơ ấy sẽ nâng nhân loại lên, hầu cùng Người chia sẻ vinh quang «bên hữu Đấng Cao Cả trên trời» (c. 3), và cùng được đồng thừa hưởng phần gia nghiệp đã dành sẵn trên trời.

 

Lễ Giáng Sinh, một ngày lễ của tuổi thơ: không có nghĩa là chúng ta phải trở về với thiên đàng của tuổi thơ, nhưng là lòng chúng ta rộn rã một niềm vui trong sáng, một sự bình an êm đềm, vì được nghe chính lời của Thiên Chúa nói: «Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, hoặc là: Ta sẽ là Cha Người, và chính Người sẽ là Con Ta» (c. 5).

 

1.3. Bài Tin Mừng: Ngôi Lời đã làm người

 

«Ngôi Lời đã làm người» (c. 14). Một lời vô hình làm sao có thể trở thành thân xác hữu hình? Làm sao lời của Thiên Chúa có thể được diễn tả, có thể nói trong thân phận của một hài nhi được quấn tã đặt trong máng cỏ vốn chưa biết nói, và trong tình trạng đau thương trên thập giá không nói một lời? Nhưng Thiên Chúa đã nói bằng chính sự yếu nhược và trong sự thinh lặng. Sự thinh lặng đối với mọi người là một lời chứng hùng hồn về lời của Thiên Chúa. Người không nói bằng những ngôn từ, nhưng nói bằng việc “mặc lấy thân xác”.

 

Quả thật, «Thiên Chúa, không ai thấy bao giờ, nhưng nay đã được tỏ lộ nơi chính Người Con Một» (c. 18). Đó là lời nói xác thực nhất, một lời nói đưa đến một sự gặp gỡ, lời nói khởi đầu cho mầu nhiệm Nhập Thể. Đó là một lời nói mang tính nhiệm mầu, vượt khỏi sự hiểu biết của phàm nhân, nhưng lại trở thành hiện thực: «Ngôi Lời đã làm người, và đang ở giữa chúng ta» (c. 14), và sẽ còn ở với chúng ta mãi mãi, bởi Thiên Chúa vẫn không ngừng nói với nhân loại nơi chính Đức Giêsu Kitô, Con yêu dấu của Người.

 

2. Suy niệm: Đất với Trời se chữ đồng

 

Đêm thánh vô cùng

Giây phút tưng bừng

Đất với trời se chữ đồng

 

Đó là những ca từ của nhạc phẩm Giáng sinh nổi tiếng: “Đêm Thánh vô cùng”, với phần lời gốc do linh mục Josef Mohr viết bằng tiếng Đức: “Stille Nacht”,  và phần giai điệu do nghệ sĩ organ Franz Xaver Gruber sáng tác năm 1818, cả hai đều là người Áo. Vào tháng 3 năm 2011, nhạc phẩm này đã được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại.

 

Lịch sử ghi nhận rằng linh mục Josef Mohr đã viết lời cho bài hát từ năm 1816, nhưng mãi đến năm 1818 mới tìm gặp nghệ sĩ Gruber để nhờ soạn phần giai điệu. Nhạc phẩm đã được hoàn tất và được hát lần đầu tiên trong đêm vọng Lễ Chúa Giáng sinh năm 1818 tại Nhà thờ Thánh Nicôla (Nicola-Kirche) ở Obendorf thuộc nước Áo. Và cũng kể từ đó, những ca từ mộc mạc cùng với giai điệu ngọt ngào của bài hát đã luôn được vang lên trên khắp thế giới trong mỗi dịp Giáng sinh về từ hơn hai thế kỷ qua.

 

Đất với trời se chữ đồng” vì đêm nay “Con Chúa sinh ra chốn hang lừa”. “se” có nghĩa là đan kết, là kết lại với nhau. ‘Se chữ đồng’ là một cuộc gặp gỡ, là một kết ước giữa trời và đất. Đất tượng trưng cho người, trời thuộc về Thiên Chúa. ‘Se chữ đồng’ là trời cao xuống thấp và đất được nhắc lên, bởi vì “Thiên Chúa đã làm người để con người làm Chúa”  (Thánh Clément Alexandrie và Grégoire Naziance). Chính vì thế,  “Đất với trời se chữ đồng” là một mầu nhiệm, là thách đố đối với niềm tin của nhiều người, và cũng là một điều không hề dễ hiểu. Và cuối cùng, ‘se chữ đồng’ là trở nên một, là loại bỏ những sự chênh lệch, là san phẳng núi đồi, là bồi đắp lũng sâu, là uốn thẳng những đường cong, là vui mừng trong tình yêu hòa hợp. Tuy nhiên, để có thể se lại với nhau, cần có những điều kiện, trong đó quan trọng hơn cả đó là sự từ bỏ mình và sự thành tín.

 

2.1. Để “se chữ đồng” cần phải từ bỏ mình

 

Trong đêm Giáng sinh, Thiên sứ loan báo cho các mục đồng: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh được bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2,11-12).

 

Từ lời của Sứ thần cho thấy Ngôi Lời đã đến trần gian trong khung cảnh thật đơn sơ, thanh bạch, nghèo hèn như thế đó. Người đến như một hài nhi cần sự giúp đỡ của con người. Người đến với loài người trong phận nghèo, Người không muốn cứu thế giới bằng con đường nào khác ngoài con đường “Tự hủy” của một vì Thiên Chúa đã từ bỏ thiên cung để giáng trần: «Ngôi Lời đã làm người, và đang ở giữa chúng ta» (Ga 1,14). Có thể nói, giây phút khởi đầu làm người của Đức Kitô qua mầu nhiệm Giáng Sinh, mầu nhiệm nhập thể và nhập thế, là Người bắt đầu bước vào hành trình “Tự hủy” của Người nơi dương thế, hầu cho tình yêu của Thiên Chúa được tỏ lộ nơi gia đình nhân loại.

 

Chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ hèn mọn, chúng ta học cách sống của Người, cách sống của Mầu nhiệm Tự hủy, cho đi tất cả chỉ vì tình yêu. Và cùng thực hành với Người điều tinh túy nhất của tình yêu là sự khiêm nhường từ bỏ mình. Bởi vì, cũng như đất với trời chỉ có thể “se chữ đồng” khi Ngôi Lời trở thành người; thì cũng vậy, chúng ta chỉ có thể se chữ đồng với Hài Nhi Giêsu và với nhau, khi mỗi người biết quên mình vì ích chung, vì giao ước, vì tình yêu, vì sự dấn thân trong hành trình làm môn đệ Chúa, làm bạn đồng hành với anh chị em mình trong hành trình đức tin và hành trình ơn gọi.

 

2.2. Để “se chữ đồng” cần có sự thành tín

 

Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán,

đầy yêu thương trong mọi việc Người làm” (Tv 145,17).

 

Thiên Chúa – Đấng yêu thương và thành tín, một danh xưng rất quen thuộc đối với dân Chúa từ thời Cựu ước tới thời Tân uớc và với Giáo hội ngày nay. Thiên Chúa là Đấng thành tín vì sự thủy chung, vì trước sau như một, Người luôn trung thành với giao ước và với lời hứa.

 

Mầu nhiệm cứu độ, một sáng kiến khởi nguồn từ ý định yêu thương muôn đời của Thiên Chúa, nhằm thông ban sự sống hạnh phúc của Người cho nhân loại; Và mầu nhiệm Nhập Thể là bước cuối cùng trọn vẹn nhất của Thiên Chúa đi vào lịch sử loài người: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này,Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1). Chính nhờ tình yêu thương và lòng thành tín của Thiên Chúa mà chương trình Cứu độ được thực hiện một cách tiệm tiến trong thời gian qua giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với dân Người, cho dù con người có bất trung phản bội, phá vỡ kế hoạch của Người. 

 

Niềm tin vào một Thiên Chúa đầy yêu thương và giàu lòng thành tín không bao giờ xóa nhòa khỏi ký ức của dân Israel. Phần chúng ta, chúng ta cũng được nuôi dưỡng và lớn lên bằng chính đức tin và giáo huấn của Giáo hội qua các thời đại, để chúng ta mãi mãi xác tín về một Thiên Chúa yêu thương và thành tín. Thực vậy, có thể nói rằng, cảm nghiệm về một Thiên Chúa yêu thương và thành tín chính là cảm nghiệm thâm sâu và riêng tư của mỗi người chúng ta, khi chúng ta đã bước qua những khúc quanh cuộc đời với nhiều cung bậc khác nhau: niềm vui hay nỗi buồn, thành công hay thất bại, những thành tựu hay đổ vỡ; nhất là khi chúng ta đã có những trải nghiệm về sự bất tín, đã có những lần lạc bước đi thật xa tưởng chừng quên cả lối về. Bên cạnh đó, khi chiêm ngắm tình yêu và lòng thành tín của Thiên Chúa được cụ thể hóa nơi chính bản thân Hài Nhi Giêsu được đặt nằm trong máng cỏ, chúng ta bị thúc bách bởi mời gọi dấn thân cách triệt để trong sự trung thành với lời hứa đức tin, với lời khấn, lời cam kết sống đời thánh hiến, như là một lời đáp trả hữu hiệu và xứng đáng với những ân huệ mà ta đã lãnh nhận do lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.

 

 

Thiết kế Web : Châu Á