THAM KHẢO

MỘT CHIA SẺ VỀ ĐỒNG HÀNH THIÊNG LIÊNG VỚI GIỚI TRẺ

Đồng hành thiêng liêng (spiritual accompaniment) là một lối nói mới thay cho lối nói được dùng trước đây: linh hướng (spiritual direction). Vị đồng hành giúp đỡ một người khác, nhưng là giúp người đó nhận ra hoạt động của Thiên Chúa trong đời người ấy. Chúa Thánh Thần là “Thầy dạy đích thực và tối thượng” mà cả vị đồng hành lẫn người được đồng hành đều phải lắng nghe và vâng phục trên con đường cùng nhau tìm kiếm Ý Thiên Chúa.

 

 

 

MỘT CHIA SẺ VỀ ĐỒNG HÀNH THIÊNG LIÊNG VỚI GIỚI TRẺ

 

 

 

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

 

 

I. TRÊN ĐƯỜNG VỀ EMMAUS (Lc 24,13-35)

 

Con đường từ Giêrusalem về Emmaus dài khoảng 11 cây số. Hai môn đệ của Chúa Giêsu đang trên đường về nhà của họ. Vì cái chết đau đớn và nhục nhã của Thầy trên thập giá, họ mất niềm tin, mất hy vọng, trái tim họ trở nên nguội lạnh. Qua trình thuật của Luca, chúng ta có thể học nơi Đức Giêsu cách đến với tha nhân, đồng hành với họ, để loan báo Tin Mừng cho họ.

 

1. Chúa Giêsu đến đúng lúc và trở thành bạn đồng hành (c. 15)

 

Ngài đến đúng lúc, không sớm hơn, không muộn hơn. Đến đúng lúc họ đang bỏ cuộc, quay quắt, ray rứt về chuyện đã qua. Đến đúng lúc là điều quan trọng, vì sớm quá thì chưa chín, muộn quá thì chuyện đã hỏng. Ngài “tiến đến gần và cùng đi với họ.” Để nâng đỡ một người, cần khiêm tốn đi chung với họ, trở nên bạn của họ. Đến gần và đi chung để gây thiện cảm, để không làm họ sợ. Để đồng hành, cần điều chỉnh tốc độ: đi nhanh với người đi nhanh, đi chậm với người đi chậm.

 

2. Chúa Giêsu gợi chuyện (cc. 17-19)

 

Ngài không cắt đứt, nhưng muốn tham dự vào câu chuyện dở dang của hai người: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Đức Giêsu giả vờ không biết khi Ngài hỏi: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” (c. 17). Ngài là người đi bước trước, mở lời trước. Nỗi buồn có thể làm người ta khép lại, vậy đừng chờ họ đến với mình. Đức Giêsu nhận được một câu trả lời lạnh nhạt, có chút mỉa mai: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” Nhưng Ngài không vội nản lòng, và khiêm tốn tiếp tục gợi chuyện: “Chuyện gì vậy?” (c.19). Ngài làm như không biết để hai ông có cơ hội bày tỏ nỗi đau của mình.

 

3. Chúa Giêsu lắng nghe (cc. 19-24)

 

Ngài lắng nghe nỗi đau của hai ông. Thầy Giêsu của họ là một ngôn sứ đầy uy quyền của Thiên Chúa, vậy mà Thầy lại bị đóng đinh như một người bị Thiên Chúa nguyền rủa. Đây là điều các ông không thể nào hiểu nổi, khiến các ông rơi vào thất vọng: “Trước đây chúng tôi vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng cứu chuộc Ítraen”(c. 21). Hai ông còn kể chuyện các phụ nữ trong nhóm của họ ra thăm mộ. Nhưng xem ra họ không tin vào những điều các bà này nói (cc. 22- 23). Mất hy vọng vào Thiên Chúa, mất niềm tin vào con người. Hai môn đệ đã bày tỏ nỗi lòng cho một người ngoài cuộc, một người lạ tình cờ gặp trên đường.

 

Thầy Giêsu không ngắt lời họ. Ngài thinh lặng lắng nghe để họ cởi mở nói cho hết. Cởi mở là bước cần thiết để họ lấy lại niềm tin và hy vọng.

 

4. Chúa Giêsu giải thích, soi sáng bằng Kinh Thánh (cc. 25-27)

 

Sau khi đã lắng nghe, “bấy giờ” Đức Giêsu mới vén mở cho hai ông thấy ý nghĩa của mầu nhiệm đau khổ mà Thầy các ông phải chịu. Nhờ lắng nghe hai ông tâm sự, Đức Giêsu biết được đâu là mấu chốt của vấn đề, đâu là nút thắt cần phải gỡ. Và Ngài đã trả lời vào chính vấn đề hiện nay của họ. Họ bị sốc trước cuộc Thương Khó của Thầy mình, nên Ngài cho họ thấy đau khổ là nhịp cầu Đức Kitô phải đi qua để vào vinh quang (c. 28). Đây không phải là một tai họa do con người hay do Thiên Chúa chúc dữ. Đức Giêsu đã dùng Kinh Thánh để giúp các ông hiểu rằng con đường Thầy các ông đi nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Sau này, các ông nhớ lại giây phút ấy: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và cắt nghĩa Kinh Thánh cho chúng ta, trái tim chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (c. 32). Như thế, Đức Giêsu chẳng những soi sáng cho trí tuệ để hiểu, Ngài còn làm ấm lại trái tim đã ra nguội lạnh của hai người. Tình yêu đã trở lại.

 

5. Chúa Giêsu đồng bàn với hai môn đệ (cc. 28-31)

 

Đức Giêsu giả vờ muốn đi xa hơn để họ có tự do mời Ngài. Thật vậy, họ đã bắt đầu thấy thích người khách lạ này nên nài ép Ngài ở lại với họ, và mời Ngài dùng bữa. Chính lúc Ngài bẻ bánh, thì mắt họ nhận ra Ngài. Kinh nghiệm của hai môn đệ Emmaus cũng là kinh nghiệm của chúng ta. Lúc ta tưởng Ngài vắng mặt, thì thật ra Ngài đang ở bên. Lúc ta nhận ra Ngài ở bên, thì Ngài lại biến mất. Nhưng chính lúc Ngài biến mất, ta lại thấy Ngài ở gần bên. Ngài đến lúc ta không ngờ. Ngài đi mà ta không giữ lại được. Ngài ở lại với ta, ngay cả khi ta không thấy Ngài nữa. Cuối cùng, hai môn đệ đã lấy lại được niềm tin, yêu, và hy vọng đã mất.

 

Khi suy niệm đoạn Tin Mừng nổi tiếng trên đây, chúng ta đã thấy đôi nét của công việc Đồng Hành Thiêng Liêng, đặc biệt với giới trẻ. Chúa Giêsu phục sinh đã đồng hành, cùng đi với hai môn đệ theo nghĩa đen, trên con đường từ Giêrusalem về Emmaus. Đây đúng là một đồng hành thiêng liêng, vì vấn đề được trao đổi có tính thiêng liêng. Hầu chắc hai môn đệ cũng là người trẻ. Chúa Giêsu là mẫu mực cho những nhà đồng hành. Các vị đồng hành có thể học tập được nhiều điều nơi Ngài. Tập đến với tha nhân và cùng đi với họ như một người bạn, tập gợi chuyện cho họ nói, tập lắng nghe, tập soi sáng vấn đề bằng Lời Chúa, và cùng chia sẻ bữa ăn với họ.

 

Hôm nay vẫn có nhiều bạn trẻ đang lê gót về Emmaus. Họ đang buồn và đang cần những người đồng hành.

 

II. ĐỒNG HÀNH THIÊNG LIÊNG LÀ GÌ?

 

Đồng hành thiêng liêng (spiritual accompaniment) là một lối nói mới thay cho lối nói được dùng trước đây: linh hướng (spiritual direction). Lối nói mới này cũng phản ánh một cái nhìn mới. Khi nói đến linh hướng, người ta dễ nghĩ đến chuyện một vị linh hướng hướng dẫn một người thụ hướng trong đàng thiêng liêng. Khi linh hướng, vị linh hướng thường được coi là người “thay mặt Thiên Chúa dẫn dắt một tập thể hay cá nhân ngang qua sự chỉ đạo một chiều, mà ít để ý đến tác động của Thánh Thần nơi tâm hồn người thụ hướng hay khả năng của người ấy trực tiếp mở ra với Thánh Thần”[1] Còn trong đồng hành thiêng liêng, vị đồng hành cũng giúp đỡ một người khác, nhưng là giúp người đó nhận ra hoạt động của Thiên Chúa trong đời người ấy. Như thế có thể nói, vai trò của vị đồng hành thu hẹp hơn vì có nhân vật thứ ba hiện diện, đó là Chúa Thánh Thần. Đây mới là nhân vật chính. Đây mới là “Thầy dạy đích thực và tối thượng” mà cả vị đồng hành lẫn người được đồng hành đều phải lắng nghe và vâng phục trên con đường cùng nhau tìm kiếm Ý Thiên Chúa[2]. Đời con người là một cuộc hành trình dài, Thiên Chúa vẫn ngỏ lời với từng người cách riêng tư kín đáo trong mọi thời điểm và biến cố. Người đồng hành giúp tôi nhận ra và đáp lại tiếng Chúa nói riêng với lòng tôi, cũng như giúp tôi thực thi những đòi hỏi của Chúa.

 

III. HÌNH ẢNH CỦA NGƯỜI ĐỒNG HÀNH THIÊNG LIÊNG

 

Trong Tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng (2013), Đức Thánh Cha Phanxicô viết về đồng hành như sau: “Trong thế giới chúng ta, các mục tử có chức thánh và các nhà hoạt động mục vụ khác có thể làm cho hương thơm của một Đức Kitô gần gũi và cái nhìn thân mật của Ngài trở nên hiện thực. Hội Thánh sẽ phải khai tâm mọi người – linh mục, tu sĩ và giáo dân – trong “nghệ thuật đồng hành” này. Nó dạy chúng ta biết cởi dép khi đứng trên nền đất thánh thiêng của người khác” (169).

 

Như thế theo Đức Thánh Cha, vị đồng hành thiêng liêng là những mục tử có chức thánh và những người làm công tác mục vụ, các tu sĩ và giáo dân. Theo ngài, nét đầu tiên và quan trọng của vị đồng hành thiêng liêng là sự gần gũi của người đó với Đức Kitô. Vì nếu không gần gũi với Đức Kitô thì vị đồng hành cũng không thể làm người khác gần gũi với Đức Kitô được. Vị ấy phải gần đến mức hương thơm của Đức Kitô thấm vào mình và hồn nhiên tỏa hương thơm ấy đến nỗi người được đồng hành cũng cảm được. Vị đồng hành phải có kinh nghiệm bắt gặp được cái nhìn thân mật của Đức Kitô trong cầu nguyện, rồi được ghi dấu sâu đậm và được biến đổi bởi cái nhìn ấy, để rồi qua cái nhìn của vị đồng hành, người khác bắt gặp được cái nhìn thân mật của chính Đức Kitô.

 

Tuy nhiên, có một đời sống thân thiết và thiết thân với Đức Kitô cũng chưa đủ. Đức Thánh Cha còn coi đồng hành là một nghệ thuật cần được trau dồi, tập luyện, “nghệ thuật đồng hành.” Vị đồng hành cần có hiểu biết về tâm lý đầy đủ để nắm được tiến trình phát triển và trưởng thành của người trẻ. Lắm khi vị đồng hành cũng phải nhìn nhận giới hạn của mình trước một trường hợp khá nghiêm trọng, để giới thiệu người bạn trẻ đó cho một vị khác có chuyên môn hơn về tâm lý trị liệu. Ngay cả vị đồng hành cũng cần được đồng hành và được linh hướng. Vị đồng hành nào mà không ý thức được Thánh Thần đang làm việc trong đời mình, thì cũng chẳng có khả năng giúp các bạn trẻ nhận ra hoạt động của Thánh Thần trong đời họ. “Không phải cứ linh mục hay tu sĩ là có thể đồng hành hay linh hướng một cách phù hợp được. Ai muốn làm đồng hành hay linh hướng, cần được huấn luyện chuyên nghiệp và đào luyện liên tục.”[3] Vị đồng hành cần biết mình, biết khả năng và giới hạn của mình, nhờ đó dễ giúp bạn trẻ tiến bước trên hành trình đức tin của họ.

 

IV. ĐỒNG HÀNH THIÊNG LIÊNG KHI NÀO?

 

Khi nghĩ đến linh hướng, người ta thường nghĩ đến chuyện vị linh hướng ngồi với người thụ hướng, trong một chiếc phòng ấm cúng, đôi khi có một ngọn nến cháy lung linh trên bàn. Đồng hành thiêng liêng với người trẻ không nhất thiết phải theo hình thức đó. Đức Giêsu đã đồng hành trong thực tế với hai môn đệ Emmaus, khi đi chung với họ mấy cây số. Thánh Luca nhấn mạnh chuyện Ngài gặp họ “dọc đường” (Lc 24,32.35). Trong hình thức đơn sơ nhất, đồng hành có thể diễn ra bất cứ nơi nào, lúc nào thuận tiện, khi nào có cuộc gặp gỡ bề sâu giữa vị đồng hành và người bạn trẻ. Có khi chỉ qua ít phút trao đổi cũng đủ làm cho vấn đề được soi sáng. Dĩ nhiên một cuộc gặp gỡ có thể kéo dài lâu giờ, và đôi khi cần có nhiều lần gặp gỡ mới mong thấy được ý Chúa. Thường cuộc gặp gỡ diễn ra giữa hai người, vị đồng hành và người bạn trẻ. Nhưng cũng có khi vị đồng hành phải giúp đỡ cho cả một nhóm, có cùng mối quan tâm thiêng liêng, có cùng mục tiêu phụng sự Chúa và Giáo Hội. Đồng hành cho một nhóm bạn trẻ là giúp nhóm ấy có tương quan thân thiết với Chúa Giêsu, trưởng thành trong ba nhân đức tin cậy mến, và trở nên những người có khả năng làm chứng cho Chúa trong môi trường mình đang sống.

 

V. LẮNG NGHE TRONG ĐỒNG HÀNH THIÊNG LIÊNG

 

Như ta thấy trong trình thuật Emmaus, trước khi Đức Giêsu gỡ rối cho hai môn đệ, Ngài đã chăm chú lắng nghe họ, không ngắt lời. Lắng nghe là phần không thể thiếu trong đồng hành thiêng liêng.

 

Đức Thánh Cha đã trình bày về lắng nghe như sau: “Chúng ta cần phát triển nghệ thuật lắng nghe, chứ không chỉ là nghe suông. Khi giao tiếp, lắng nghe là mở lòng để có được sự gần gũi mà thiếu nó thì không thể có sự gặp gỡ thiêng liêng. Lắng nghe giúp chúng ta tìm ra cử chỉ và lời nói thích hợp để chứng tỏ chúng ta không chỉ là những khách qua đường. Chỉ khi có thái độ lắng nghe với lòng tôn trọng và cảm thông, chúng ta mới có thể bước vào con đường tăng trưởng đích thực và đánh thức một khát vọng về lý tưởng Kitô giáo: ước muốn đáp lại trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa và làm cho những gì Ngài đã gieo trong cuộc đời chúng ta sinh hoa kết quả.” (Niềm Vui Tin Mừng, 171). Như thế Đức Thánh Cha đã coi lắng nghe là một nghệ thuật. Để nắm được nghệ thuật này, ngài đòi vị đồng hành phải mở lòng, chứ không chỉ mở tai. Mở lòng để có thể nghe được những điều mà tai không nghe được, những điều nằm phía sau hay phía dưới điều người kia nói. Ngài còn cho thấy hai thái độ cần có khi lắng nghe, đó là lòng tôn trọng và cảm thông. Tôn trọng vì biết những gì mình đang nghe là những điều thánh thiêng, thấy Thiên Chúa đang chạm vào chỗ sâu thẳm của lòng người, chờ mong người ấy mở ra và đáp lại. Đức Thánh Cha đã diễn tả thái độ tôn trọng như sau: “chúng ta cần biết cởi dép khi đứng trên nền đất thánh thiêng của người khác” (Niềm Vui Tin Mừng 169). Thông cảm vì biết con người có những giới hạn về nhiều mặt, mỗi người có những giới hạn riêng, nên không vội vã xét đoán hay kết án. Vì hoàn cảnh mỗi người mỗi khác, vị đồng hành phải đặt mình vào trong hoàn cảnh của người đối diện, để thực sự hiểu hết được câu chuyện đời người ấy. Bây giờ người ta dùng lối nói “lắng nghe thấu cảm” (empathetic listening) để diễn tả lối lắng nghe này.

 

Có người chia ra ba loại lắng nghe.

 

1. LOẠI LẮNG NGHE THỨ NHẤT là chú tâm vào những gì giới trẻ nói để tìm ra những vấn đề của họ, những nhu cầu của họ, những mối bận tâm của họ. Có những bạn trẻ mất đức tin vì không ai gỡ cho mình một khúc mắc đã có từ lâu. Đức tin vẫn cần sự ưng thuận của trí khôn nữa.

 

Lắng nghe là cách thức để khám phá những câu hỏi của người trẻ, mà chúng ta có thể trả lời với giáo huấn của Giáo Hội. Theo tôi, loại lắng nghe thứ nhất này không phải là không quan trọng, thậm chí đây là điều thường xảy ra. Nhiều người trẻ đến với vị đồng hành mà họ tin tưởng vì họ đang gặp vấn đề mà tự họ không giải quyết được. Có những vấn đề về đức tin, thí dụ về cách cầu nguyện, về bùa ngải, về một người bị quỷ ám, về làm sao biết được ý Chúa, đặc biệt trong việc chọn lựa ơn gọi. Có những vấn đề về luân lý, thí dụ như vấn đề quan hệ trước hôn nhân, thủ dâm, đồng tính… Cũng có cả những vấn đề có vẻ đời thường, thí dụ như chọn người bạn đời, chọn việc làm, giải quyết vấn đề trong gia đình… Người đồng hành được nghe những điều làm người trẻ nặng lòng. Có thể là một vấn đề rất khó giải quyết, những cũng có thể là một vấn đề quá đơn sơ và dễ dàng. Trong loại lắng nghe thứ nhất này, người bạn trẻ có vẻ thụ động để lắng nghe lời giải đáp từ người đồng hành. Họ sẽ sung sướng khi thấy vấn đề của mình được giải quyết ổn thỏa, nhận được ánh sáng để hiểu rõ hơn, hay thấy lương tâm thanh thản hơn trước chuyện đã qua. Cũng phải cho thấy giáo huấn của Chúa Giêsu hay của Giáo hội không phải là một áp đặt vô lý trên tự do con người, nhưng nhằm bảo vệ cho con người khỏi những trói buộc của tội lỗi.

 

Để có thể trả lời những vấn đề làm người trẻ bận tâm, những vấn đề thuộc đủ mọi lãnh vực, có tính thiêng liêng nhiều hay ít, vị đồng hành phải là người có kiến thức sâu rộng về nhiều mặt: về thần học, Kinh Thánh, về truyền thống linh đạo trong Giáo Hội, về tâm lý… Đức tin của bạn trẻ có thể bị rơi vào khủng hoảng chỉ vì không thấy Thiên Chúa là đấng toàn năng trước sự dữ đang xảy ra. Thiên Chúa cũng bị coi là Thiên Chúa vô cảm, không biết yêu thương, khi người trẻ hay gia đình của họ gặp nhiều thử thách quá sức chịu đựng. Như thế người đồng hành phải cho họ thấy khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa, một Thiên Chúa tôn trọng tự do con người, một Thiên Chúa chấp nhận cỏ lùng mọc chung với lúa tốt, một Thiên Chúa cho phép Xatan ảnh hưởng trên con người (SGLCG 760). Thập giá của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là sự dữ lớn nhất mà Thiên Chúa cho phép xảy ra, để trao ban ơn cứu độ của Ngài qua cái chết thảm khốc của người Con Một. Nơi đây, tưởng như Thiên Chúa chịu thua lòng độc ác của loài người tội lỗi, tưởng như tử thần có khả năng nuốt chửng Đấng ban sự sống, Đấng là Sự Sống. Nơi đây tưởng như Thiên Chúa vắng mặt, thinh lặng hay khoanh tay. Nhưng chính qua thập giá Chúa Giêsu, Thiên Chúa cho thấy một Tình Yêu lớn lao (Ga 3,16), tình yêu mạnh hơn cái chết, khi cho Đức Giêsu được phục sinh. Mầu nhiệm thập giá giải quyết được nhiều khúc mắc trong đời sống đức tin của người trẻ. Hiểu biết về Kinh Thánh cũng cần cho vị đồng hành, vì thi thoảng có những câu lời Chúa đặt vấn đề cho bạn trẻ khiến họ bối rối. Vị đồng hành không cần phải có chuyên môn Kinh Thánh, nhưng phải có đủ khả năng để cho thấy câu lời Chúa đó nằm trong bối cảnh nào, được viết theo thể văn nào, nên thực sự nó mang ý nghĩa gì và phải áp dụng ra sao. Thí dụ như lời khuyên đưa má ra sau khi bị tát, hay phải yêu kẻ thù…

 

Hơn nữa, vị đồng hành còn phải thông thạo những vấn đề mà giới trẻ ngày nay đang đối diện, những điều làm họ say mê, và những điều bị họ coi là không hợp thời, những cám dỗ đang lôi kéo họ, và những lý do khiến họ rời xa Chúa và Giáo Hội. Những hiểu biết rành rẽ về người trẻ của vị đồng hành sẽ giúp cho cuộc đối thoại dễ dàng hơn. Không thể đồng hành với người trẻ nếu không biết khá rõ về vấn đề đồng tính, ngừa thai, phá thai, thủ dâm, phim sex, oral sex hay quan hệ trước hôn nhân; về hậu quả của chúng và về lý do tại sao Giáo Hội cấm đoán chúng.

 

2. LOẠI LẮNG NGHE THỨ HAI là nghe xem người trẻ nghĩ gì về Giáo Hội để biết Giáo Hội phải thay đổi như thế nào.

 

Có những người trẻ muốn được đồng hành để giải quyết những vấn đề của mình, nhưng cũng có một số ít người trẻ thao thức về sứ mạng của Giáo Hội. Họ thấy Giáo Hội có những bất toàn hay bất cập, chậm chạp trong việc đối diện và giải quyết những vấn đề cấp bách. Họ biết Giáo Hội có những vị lãnh đạo bất xứng, những lạm dụng về tiền bạc hay thân xác, những chia rẽ và bè phái, những quan liêu trong cách phục vụ, những chạy đua về tiếng tăm, vật chất, hưởng thụ… Không nên coi những người này là thành phần nổi loạn, chống đối Giáo Hội. Trái lại, vị đồng hành có thể nhận ra họ là những người mang nặng mối ưu tư về Giáo hội và nóng lòng muốn đóng góp phần của mình. Chấp nhận đối thoại thẳng thắn và tích cực lắng nghe, vị đồng hành có thể tìm thấy một người trẻ tích cực cộng tác với mình trên con đường canh tân bộ mặt Giáo Hội hay giúp Giáo Hội ứng phó với một tình huống khó khăn chưa từng thấy. Khiêm tốn lắng nghe một bạn trẻ, dù ý kiến người đó còn non nớt, nông cạn hay phiến diện, vị đồng hành cho thấy thái độ của Giáo Hội: đón nhận đóng góp của bất cứ ai có thiện chí với lòng biết ơn. Tinh thần sáng tạo của người trẻ, nhất là người trẻ trí thức, sẽ giúp cho Giáo Hội giữ được vẻ tươi mới, hợp thời, và khiến Giáo Hội hấp dẫn những người trẻ khác.

 

3. LOẠI LẮNG NGHE THỨ BA mà Thầy Alois, tu viện trưởng cộng đoàn Taizé ở Pháp đang thực hành, rất gần với điều chúng ta đã nói đến trên đây về đồng hành thiêng liêng.

 

Tu viện Taizé ở Burgundy nổi tiếng vì thu hút những người trẻ, kể cả những người không bao giờ đi nhà thờ. Thầy Alois giải thích rằng những người làm việc ở Taizé là những người biết lắng nghe người trẻ để khám phá ra nơi Thánh Linh đang hoạt động trong cuộc đời họ, ngay cả trong cuộc đời những người không coi mình là tín hữu. Công việc của những người lắng nghe này là không áp đặt ý tưởng của họ lên giới trẻ, mà là giúp các bạn trẻ thấy sự hiện diện của Thánh Thần trong cuộc đời họ. Thầy Alois xác tín rằng nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì nơi nào có tình yêu và lòng trắc ẩn, nơi nào có khát khao công lý và sự hòa giải, thì Thiên Chúa hiện diện ở đó, ngay cả trong những người chưa được rửa tội. Alois tin rằng những người trẻ đã tràn đầy Thánh Thần rồi. Họ chỉ cần chúng ta giúp đỡ để nhận ra điều đó thôi.

 

Lối đồng hành trên đây của Taizé nhấn mạnh đến việc vị đồng hành không hướng dẫn người trẻ đi tìm ý Chúa ở ngoài cuộc đời của họ, nhưng hướng dẫn họ tìm ý Chúa trong cuộc đời của họ. Không quay ra, nhưng quay vào trong lòng mình. Điều này giả thiết là Thánh Thần đã hiện diện và hoạt động trong cuộc đời mỗi bạn trẻ, bất chấp họ là ai, họ có phải là kitô hữu không, hay có phải là kitô hữu ngoan đạo hay không. Đồng hành là giúp họ nhận ra sự hiện diện và hoạt động ấy, dù còn mờ nhạt và kín đáo. Khi người trẻ khám phá ra điều đó, họ sẽ ngỡ ngàng và reo vui, vì bấy lâu họ tưởng đời họ là mảnh đất bỏ hoang, cằn cỗi, không người canh tác. Họ ngây ngất khi vị đồng hành cho thấy Thánh Thần hay Thiên Chúa đã có mặt cả trong lúc họ cô độc hay tự cô lập mình, đã tế nhị nâng đỡ họ cả trong lúc họ tưởng mình phải một mình chèo chống. Giúp bạn trẻ nhìn lại đời mình, thấy đời mình dưới một ánh sáng mới, thấy Thánh Thần luôn đồng hành với mình: đó là việc của người đồng hành. Để làm được việc đó, vị đồng hành cần có nhiều kinh nghiệm thiêng liêng, có khi là kinh nghiệm của chính cuộc đời mình. Như Simôn và người môn đệ Chúa yêu ra thăm mộ, dù ngôi mộ tối tăm u ám, họ vẫn nhìn thấy tấm khăn che đầu được xếp gọn gàng và được để sang một bên. Chỉ cần một chi tiết nhỏ trong cuộc đời đầy vấp ngã của người bạn trẻ, cũng đủ làm sáng lên tất cả những gì tưởng như là đổ vỡ hoàn toàn. Vị đồng hành phải là người nhận ra cái biến cố tưởng như vô nghĩa đó, cái may mắn tình cờ đó, cái cố gắng nhỏ nhoi đó của tình yêu khi lòng đã muốn buông xuôi, đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa, từ đó giúp bạn trẻ thấy chẳng có gì phải thất vọng hay tuyệt vọng. Cơ hội để làm lại vẫn còn. Niềm tin không bị mất…

 

Nhà văn Antoine de Saint-Exupéry có viết: “Đừng đi trước tôi, tôi không đi theo đâu. Đừng đi sau tôi, tôi không dẫn đường đâu. Hãy đi bên tôi và là bạn của tôi.” Vị đồng hành thật là một người bạn, bạn đường của người bạn trẻ, dù vẫn là người thầy.

 

VI. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỒNG HÀNH THIÊNG LIÊNG

 

Nếu vị đồng hành chấp nhận dành thì giờ để đồng hành với bạn trẻ, và nếu người bạn trẻ cũng có ý muốn gặp gỡ vị đồng hành, hẳn cả hai đều hướng đến một mục tiêu nào đó. Dù cuộc gặp gỡ như thế nào đi nữa, mục tiêu vẫn là làm sao khám phá ra ý Chúa cho cuộc đời người bạn trẻ và giúp họ hạnh phúc sống theo ý Chúa. Mỗi bạn trẻ có một hoàn cảnh riêng, một ơn gọi riêng từ Thiên Chúa. Chỉ khi chọn đúng điều Chúa muốn, người đó mới được hạnh phúc thật sự. Nếu tôi phải đồng hành với một bạn trẻ đồng tính, làm sao tôi giúp bạn ấy đón nhận khuynh hướng tính dục của mình? Làm sao tôi giúp bạn ấy cắt đứt với những tương quan không phù hợp trước đây? Và hơn nữa, làm sao tôi cho thấy bạn ấy hoàn toàn có khả năng là một người Công giáo tốt lành, hạnh phúc và triển nở ngay khi bạn ấy vẫn là người đồng tính.

 

Vị đồng hành là người bạn đường có nhiệm vụ đi chung và giúp người bạn trẻ nhận ra những dấu hiệu cho thấy ý Chúa. Vị đồng hành không áp đặt ý của mình lên người bạn trẻ, nhưng tôn trọng những suy nghĩ và tình cảm của người bạn này. Như thế vị đồng hành cần có thái độ “bình tâm” (indifference) như lối nói của thánh I-nha-xi-ô trong Linh Thao. Bình tâm ở đây không phải là bình tĩnh hay lãnh đạm lạnh lùng, mà là thái độ khiêm tốn của người đang tìm kiếm chứ chưa tìm thấy. Chính vì thế bình tâm là tạm thời không nghiêng hơn về chọn lựa nào cả. Một trong những nguy hiểm của vị đồng hành là vội vã cho rằng mình đã thấy hướng đi cho người bạn trẻ rồi, không cần phải tìm kiếm thêm nữa. Như thế vị đồng hành quên rằng mình vẫn đang trong hành trình cùng tìm kiếm với người bạn trẻ này. Đồng hành là lắng nghe những chuyển động âm thầm của Thánh Linh đang tác động nơi tâm hồn người bạn trẻ. Có khi người đồng hành đành phải bỏ đi ý nghĩ của mình sau khi lắng nghe người trẻ, đơn giản là vì, qua cuộc trò chuyện, họ cảm nhận tác động của Thánh Linh lôi cuốn mãnh liệt một người trẻ bước theo con đường rất riêng tư, ít người đi.

 

Vị đồng hành và người bạn trẻ cùng nhau tìm ý Chúa. Người bạn trẻ kể cho vị đồng hành nghe những biến cố đã và đang xảy ra trong đời mình, cũng như những chuyển động nội tâm của mình, nói theo kiểu của Linh Thao là những “an ủi” hay “sầu khổ”. Vị đồng hành lắng nghe, cảm thông, và cùng với người bạn trẻ “phân định” xem đâu là tác động của Thiên Chúa hay Ác thần. Vị đồng hành phải là người có kinh nghiệm về phân định (discernment), thậm chí nhạy bén trong việc nhận ra cả chuyện quỷ dữ giả dạng thần lành, lôi kéo người ta đi theo con đường của nó, trông có vẻ rộng và tốt, nhưng cuối cùng lại dẫn đến diệt vong (Mt 7,13-14). Để có kinh nghiệm về phân định, vị đồng hành cần nắm vững các nguyên tắc, nhưng cũng cần trải qua những kinh nghiệm thương đau nơi chính bản thân mình. Thánh I-nha-xi-ô chỉ đưa ra những nguyên tắc để phân định xem đâu là tác động của Chúa, đâu là cám dỗ của quỷ, sau khi chính Ngài đã có nhiều kinh nghiệm cá nhân về việc bị ma quỷ đánh lừa, được kể trong sách Tự Thuật.[4]

 

Đồng hành thiêng liêng là một tiến trình huấn luyện cần thiết giúp người trẻ trưởng thành trong đời sống kitô. Người trẻ bước vào đời, sống đức tin của mình với bao câu hỏi và thắc mắc mà tự mình không sao trả lời được, với bao cám dỗ và vấp ngã thấy khó tự mình đứng lên. Có được một người đồng hành với mình, hiểu mình, gần gũi mình như một người bạn, giỏi hơn mình như một người thầy: đây thật là một ơn phúc. Việc đồng hành trước hết giúp người trẻ giữ vững đức tin giữa những sóng gió của lạc thuyết, sau nữa làm đức tin ấy mạnh mẽ và phát triển đến tột cùng. Nếu vị đồng hành là một người say mê Giêsu và có đời sống gương mẫu, thì chắc chắn người trẻ ấy sẽ trưởng thành trong ơn gọi kitô và có khả năng làm chứng về đức tin của mình trong mọi môi trường sống. Nhờ quen quay vào trong để nhận ra con người nội tâm, quen có kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa một cách cá vị, và nhờ quen với việc phân định để tìm ý Chúa, người bạn trẻ sau này có thể đứng vững và dễ dàng tìm thấy cách thức mình phải sống đức tin trong hoàn cảnh riêng của mình, dù khó khăn đến đâu.

 

Vị đồng hành là một người bạn gần gũi và hiểu được những sâu kín của lòng người bạn trẻ, nên có thể nảy sinh tình cảm giữa hai người. Không phải ai cũng bắt chước được tình bạn linh hướng giữa thánh Phanxicô và thánh nữ Clara, hay thánh Têrêsa và thánh Gioan Thánh Giá. Chính vì thế vị đồng hành cần giữ khoảng cách và thường xuyên xét mình để nhận ra những thay đổi nơi tình cảm của mình, và có thể cả nơi tình cảm nơi người bạn trẻ. Cha De Guibert, S.J. khuyên: “Nếu vì tình cảm mà vị linh hướng cảm thấy ngại tiếp tục đồng hành, thì hãy tìm cơ hội để chuyển đương sự đến một vị linh hướng khác.” Bầu khí của cuộc gặp gỡ giữa vị đồng hành và người bạn trẻ phải là bầu khí thiêng liêng, đáng tin cậy, và an toàn.

 

KẾT: Đồng hành với giới trẻ là việc mục vụ quan trọng. Để có một thế hệ kitô hữu trẻ trung, trưởng thành, năng động, không thể nào không có bóng dáng của những vị đồng hành đứng phía sau. Nhu cầu có những vị đồng hành cho giới trẻ là nhu cầu có thực và khẩn trương, nếu không chúng ta sẽ chỉ lôi kéo được một lớp trẻ đông đảo, với những sinh hoạt vui vẻ ồn ào bên ngoài, nhưng lại thiếu sự sâu lắng bên trong để tĩnh lặng mà gặp Đấng Vô Hình. Mặt khác, có được một vị đồng hành tốt lại không phải là chuyện dễ dàng. Đồng hành là một ơn gọi, một “nghệ thuật” như lời Đức Thánh Cha Phanxicô nói. Cần phải “khai tâm”, phải tốn công huấn luyện các vị đồng hành. Các linh mục, tu sĩ là những người dễ có được nền huấn luyện cần thiết để trở nên một vị đồng hành: đời sống thiêng liêng, nhân bản; kiến thức thần học, Kinh Thánh, tâm lý và cả kinh nghiệm trong việc sống với giới trẻ, biết sử dụng ngôn ngữ của họ. Giáo dân cũng có thể đồng hành với người trẻ, miễn là hội đủ những điều kiện cần thiết. Dù là ai đi nữa, vị đồng hành cũng phải là người kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa, nhạy bén với tác động nhỏ của Thánh Linh, có phán đoán chín chắn và quân bình, có sự khiêm tốn dễ thương để hạ mình tiếp xúc với người trẻ, dám dành thời giờ để lắng nghe chuyện tưởng như không quan trọng.

 

Làm thế nào để duy trì sức sống của Giáo Hội? Cần thế hệ trẻ. Nếu chúng ta để giới trẻ bơ vơ, nếu họ không thấy ai đáng tin để họ có thể tâm sự và đặt câu hỏi, mong một câu trả lời, nếu họ không thấy ai coi họ là quý và dám dành giờ ngồi bên họ… thì tương lai của Giáo Hội sẽ là những nhà thờ vắng bóng người trẻ, xa lạ với đức tin và lạnh lùng với giáo sĩ. Chỉ mong Giáo Hội Việt Nam, nhờ ơn Chúa nhà thờ và hội đoàn vẫn còn thu hút người trẻ, biết nắm lấy cơ hội đang có, để đồng hành với người trẻ hôm nay.

 

 

Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, số 118 (tháng 5 & 6 năm 2020)

Nguồn: hdgmvietnam.com

 

 

 __________________________

 

[1] Trương Thanh Tùng, “Việc Phân Định của Vị Linh Hướng trong Đồng Hành và Trợ Giúp Phân Định,” trong Phân Định Thiêng Liêng, Tạp chí Linh Đạo I-Nhã (nxb Đồng Nai, 2019) 279. 

[2] Ibid., 281. 

[3] Một tài liệu chưa xuất bản của Julio Giulietti, S.J. “Ai dám dạy dỗ, thì không bao giờ tránh học hỏi” (Quicumque audet docere, numquam desistat discere). 

[4] Trong bài này tôi không đi sâu vào vấn đề “phân định”. Muốn nghiên cứu thêm, xin đọc cuốn Phân Định Thiêng Liêng do Tạp Chí Linh Đạo I-Nhã ấn hành, nhà xuất bản Đồng Nai, 2020.

 

 

Thiết kế Web : Châu Á