THAM KHẢO
Con Đường Tâm Hồn - The Way of The Heart (Chuyển ngữ: Tiến Đạt)
Con Đường Tâm Hồn
Linh đạo Các Tổ Phụ và Tổ Mẫu Sa Mạc
Nguyên bản: The Way of The Heart: The Spirituality of the Desert Fathers and Mothers
Tác giả: Henri Nouwen
Chuyển ngữ: Lm. Gioan Đạt, O.cist (Phước Lý)
Nhà Xuất Bản: HarperCollins
Năm Xuất Bản: 1981
Lời tri ân
Người viết đã khởi sự cuốn sách này trong một tập thể nghiên cứu chuyên đề, ở Trường Thần Học Yale về linh đạo sa mạc. Đó là một trong nhiều chuyên đề phấn khích nhất, tôi đã từng tham gia. Chúng tôi gồm năm nữ và bảy nam. Chúng tôi đại diện cho rất nhiều truyền thống tôn giáo: Unitarian, Các đồ đệ Chúa Kitô, Tẩy Giả, Giáo Hội Trưởng Lão, Cải Cách Hà Lan, Kitô Giáo Cải Cách, Anh Giáo Mỹ, Công Giáo Roma và Chính Thống Hy Lạp. Về tuổi tác, chúng tôi tuổi từ ngoài 20 đến gần 40, về lai lịch địa lý thuộc các nước từ Mỹ đến Irland, Hoà Lan và Australia. Chúng tôi cùng nhau cố gắng khám phá, những điều các tổ phụ và tổ mẫu sa mạc nói ở thế kỷ thứ 4 với mọi người nam nữ, muốn trở thành thừa tác viên của Chúa Giêsu Kitô ở thế kỷ 20.
Khi chúng tôi trao đổi ý tưởng và cảm nghiệm phát sinh do những câu chuyện từ sa mạc, chúng tôi từng bước nhận ra “Con Đường Tâm Hồn”, vì con đường đó làm cho chúng tôi hợp nhất, mặc dù có nhiều khác biệt về lịch sử, thần học và tâm lý. Những khám phá đó khích lệ tôi trình bày “Con Đường Tâm Hồn” như là những bài thuyết trình Đại Hội ở Trường Thần Học Perkin, Dallas và Đại Hội quốc gia về tư vấn mục vụ ở Denver. Tôi chân thành cám ơn về nhiều phúc đáp tôi nhận được trong các dịp này.
Tôi gởi lời cám ơn đặc biệt đến Virginia Yohe và Carol Plantiga về hỗ trợ thư ký, đến Stephen Leahy, Phil Zaeder, Fred Bratman và Robert Moor về những chú thích, và đến Jim Antal về tấm hình bìa đẹp mắt.
Tôi cũng muốn thể hiện lòng biết ơn sâu xa của tôi đến tất cả các thành viên của tập thể nghiên cứu: George Anastos, Kim Brown, Colman Cooke, Susan Geissler, Frank Gerry, Christine Koetsveld, Joseph Núnez, Robert Parenteau, Donald Postema, Kathy Stockton, Marjorie Thompson, Steven Tsichlis, Joshua Wootton và Mich Zeman. Những phúc đáp đa dạng phong phú của họ cho các bài viết về sa mạc giúp tôi trình bày cuốn sách này, là một cuốn sách dành cho những ai được trao cho thừa tác vụ kitô giáo.
Tôi đề tặng cuốn sách này cho John Mogabgab, dạy cùng khoá với tôi. Với lòng biết ơn, tôi làm điều này, không chỉ vì những đóng góp cá nhân của ngài cho tập thể nghiên cứu và cho cuốn sách này, nhưng hơn hết còn là, chúng tôi làm việc cùng nhau ở Trường Thần Học Yale 5 năm. Tình bạn sâu xa và sự hỗ trợ của ngài đã làm cho những năm này trở thành món quà thật sự của Chúa.
LỜI MỞ
Khoảng 20 năm nữa, chúng ta sẽ mừng ngàn năm thứ 2 kỷ nguyên kitô giáo. Nhưng câu hỏi đặt ra: “chúng ta có gì để mừng không?”. Người ta tự hỏi nhân loại có còn tồn tại với sức mạnh tàn phá của chính nó không. Khi suy nghĩ về nghèo đói gia tăng, thù hận và bạo lực lan tràn nhanh chóng giữa các quốc gia, sự đe doạ gia tăng của hệ thống vũ khí hạt nhân, chúng ta phải nhận ra rằng thế giới bắt đầu một hành trình tự sát. Chúng ta nhức nhối khi đọc lại lời của thánh Gioan, tác giả Tin Mừng:
“Ngôi Lời ... là ánh sáng thật ... đã đến trong thế gian ... và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,9-11).
Dường như bóng tối dày đặc hơn bao giờ hết, quyền lực sự dữ thấy được rõ ràng hơn bao giờ hết, và con cái của Thiên Chúa đang bị thử thách hơn bao giờ hết.
Trong vài năm gần đây, tôi tự hỏi có ý nghĩa gì không đối với một thừa tác viên trong hoàn cảnh như vậy. Điều gì đòi hỏi những người nam và nữ muốn đem ánh sáng vào bóng tối, “đem Tin Mừng đến cho người nghèo, công bố tự do cho người bị giam cầm và ánh sáng cho người mù, giải thoát người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18 -19)? Để đáp lại lời mợi gọi dấn thân trọn vẹn vào sự bấn loạn và đau khổ của thời đại và công bố Tin mừng hy vọng, người nam và nữ đòi hỏi phải làm gì?
Không khó để thấy rằng trong giai đoạn lịch sử đầy sợ hãi và đau khổ, chúng ta là thừa tác viên trong các giáo xứ, trường học, đại học, bệnh viện và nhà tù, đang có một thời gian khó khăn để chu toàn bổn phận đem ánh sáng Chúa Kitô vào trong bóng tối. Nhiều người trong chúng ta đã thích nghi quá tốt với tâm trạng ngây ngất thông thường. Một số khác trở nên mệt mỏi, kiệt sức, thất vọng, chua cay, uất ức hoặc đơn giản là buồn chán. Những người khác nữa còn năng động và đảm đang – nhưng chỉ nhằm làm vinh bản thân họ hơn là Danh Chúa Giêsu Kitô. Điều này không lạ lẫm gì. Những áp lực trong thừa tác vụ thì rất lớn, những đòi hỏi đang tăng lên và những thoả mãn đang giảm đi. Làm sao chúng ta có thể duy trì đầy đủ sức sống sáng tạo, lòng nhiệt thành với Lời Chúa, lòng khát khao phục vụ, và động cơ để khơi dậy các hội dòng của chúng ta đang chết dần? Chúng ta sẽ phải tìm dinh dưỡng và sức mạnh ở đâu? Làm sao chúng ta có thể làm giảm bớt sự đói khát tinh thần cho tha nhân?
Đó là những quan tâm tôi muốn nói trong những trang sau đây. Tôi hy vọng sẽ đem lại một số ý tưởng và kỷ luật có thể hữu ích cho những cố gắng của chúng ta, để tiếp tục là những nhân chứng sống động của Chúa Kitô trong những năm sắp tới; những năm chắc chắn sẽ đầy những cám dỗ bất tín, thích đặt cái tôi là trung tâm và thất vọng.
Nhưng chúng ta sẽ quay về hướng nào? Phải chăng là đến với: Jacques Ellul, William Stringfellow, Thomas Merton, Teillard de Chardin? Tất cả họ có nhiều điều để nói, nhưng tôi chú ý đến một nguồn mạch gợi hứng ban đầu hơn, vì nhờ tính trực tiếp, đơn sơ và cụ thể của nó, có thể dẫn chúng ta thẳng đến trung tâm cuộc chiến đấu của chúng ta mà không cần đến con đường phụ nào. Nguồn mạch này là Apophthegmata Patrum, Những Lời Dạy của Các Tổ Phụ Sa Mạc. Các Tổ Phụ Sa Mạc sống ở sa mạc Ai cập thế kỷ 4 và 5, có thể cho chúng ta một cái nhìn rất quan trọng về đời sống của chúng ta, là những thừa tác viên sống ở cuối thế kỷ 20. Các tổ phụ sa mạc và cả các tổ mẫu nữa, là những kitô hữu đi tìm hình thức tử đạo mới. Khi bách hại không còn, những người theo Chúa Kitô không còn làm chứng cho Ngài bằng đổ máu nữa. Tuy nhiên, các cuộc bách hại chấm dứt không có nghĩa là thế gian chấp nhận các lý tưởng của Chúa Kitô và thay đổi cách thực hiện; thế gian tiếp tục thích bóng tối hơn ánh sáng (Ga 3,19). Nếu thế gian không còn là kẻ thù của kitô hữu nữa, thì kitô hữu trở thành kẻ thù của thế giới tối tăm. Cuộc chiến đấu trong sa mạc là cách thế tránh khỏi cám dỗ thoả hiệp với thế gian. Các linh phụ Antôn, Agathon, Macarius, Poemen, Theodora, Sarah và Syncletica đã trở thành những người hướng dẫn thiêng liêng trong sa mạc. Ở đó, họ trở thành một loại tử đạo mới: làm chứng chống lại quyền lực huỷ diệt của ma quỷ, làm chứng cho sức mạnh cứu độ của Chúa Giêsu Kitô.
Các bài giảng thiêng liêng, lời khuyên dành cho du khách, những thực hành khổ chế rất cụ thể của họ, làm nền tảng cho những suy tư của tôi về đời sống thiêng liêng của thừa tác viên ngày nay. Cũng như các tổ phụ, tổ mẫu sa mạc, chúng ta phải tìm ra một lời đáp trả cụ thể, thực hiện được cho lời huấn dụ của thánh Phaolô: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12, 2).
Để sắp xếp các tư tưởng phù hợp, tôi sẽ dùng một câu chuyện về linh phụ Arserius. Arserius là một người có học thức cao ở Roma, có địa vị ở thượng viện, sống ở toà án của hoàng đế Theodosius với tư cách là một gia sư cho các hoàng tử Arcadius và Honorius. “Khi còn sống trong dinh thự, linh phụ Arserius cầu nguyện lên Chúa bằng những lời này, ‘Lạy Chúa, xin dẫn con vào đường cứu độ’. Và một tiếng nói đáp lại ngài, ‘Arserius, hãy trốn khỏi thế gian và con sẽ được cứu’. Sau khi bí mật xuống thuyền rời khỏi Roma đến Alexandria và rút lui vào đời sống cô tịch (trong sa mạc), Arserius lại cầu nguyện: ‘Lạy Chúa, xin dẫn con vào đường cứu độ’ và ngài lại nghe một tiếng nói ‘hãy trốn đi, hãy thinh lặng, hãy cầu nguyện luôn, vì đó là nguồn mạch của sự vô tội’1. Những từ ngữ: trốn, thinh lặng, cầu nguyện tóm tắt linh đạo sa mạc. Chúng vạch ra ba con đường ngăn cản thế gian uốn nắn chúng ta theo hình ảnh của nó và đưa ra ba con đường dẫn tới sự sống trong Thánh Thần.
Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là triển khai: trốn khỏi thế gian có ý nghĩa gì đối với chúng ta. Ở đây, nêu lên vấn đề về cô tịch. Nhiệm vụ thứ hai là xác định thinh lặng là yếu tố chính yếu của linh đạo thừa tác vụ. Cuối cùng, tôi muốn thách thức bạn với ơn gọi cầu nguyện không ngừng.
Các tổ phụ
Thánh Antôn “tổ phụ các đan sĩ”, là gương mẫu tuyệt vời nhất giúp chúng ta hiểu vai trò của cô tịch trong sứ vụ. Antôn sinh ra khoảng năm 251, là con của một nông dân người ai cập. Khi khoảng 18 tuổi, ngài nghe Lời Chúa ở nhà thờ, “hãy đi và bán tất cả những gì bạn có lấy tiền và cho người nghèo ... rồi đến theo Tôi” (Mt 19,21). Antôn nhận ra rằng lời đó nói với chính mình. Sau một thời gian sống như người lao động nghèo bên cạnh làng, ngài lui vào sa mạc, ngài sống ở đó khoảng 20 năm hoàn toàn cô tịch. Trong những năm đó, Antôn trải qua thử thách khủng khiếp. Cái vỏ bọc an toàn mong manh bị sụp đổ và vực thẳm của tội lỗi mở ra trước mắt ngài. Ngài đã vượt thắng thử thách đó – không nhờ khả năng riêng hay nhờ công đức khổ hạnh, mà nhờ vào sự hiến dâng vô điều kiện cho Đức Chúa Giêsu Kitô. Khi ra khỏi nơi cô tịch, dân chúng nhận thấy nơi ngài, những phẩm chất của một người “khoẻ mạnh” đích thực, toàn diện: thân thể, lý trí và tâm hồn. Họ lũ lượt kéo đến xin ngài chữa bệnh, an ủi và hướng dẫn. Khi tuổi cao, Antôn lui vào sa mạc sâu hơn để hoàn toàn chăm chú kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngài chết vào năm 356, khi đó khoảng 106 tuổi.
Câu chuyện về thánh Antôn được thánh Athanasio thuật lại, cho thấy rằng chúng ta phải ý thức về tiếng gọi để từ bỏ tội lỗi, uốn nắn bản thân mình biến đổi theo con người mới của Chúa Kitô. Đồng thời cũng cho thấy rằng cô tịch là lò luyện để có sự biến đổi. Cuối cùng, nhờ sự biến đổi hoặc sự hoán cải bản thân này mà nảy sinh thừa tác vụ thật sự. Vì vậy, tôi thiết tưởng triển khai ba phương diện này về đời sống của thánh Antôn, hy vọng sẽ khám phá ra những vấn đề, cũng như những cơ hội cho thừa tác vụ của chúng ta.
Thừa tác viên bị áp lực
Trong phần dẫn nhập cho cuốn sách “Sự Khôn Ngoan của Sa Mạc”, Thomas Merton viết:
Xã hội ... được [các tổ phụ sa mạc] xem như một vụ đắm tàu, ở đó mỗi cá nhân phải bơi để sống... Các ngài tin rằng nếu cứ để mình trôi dạt, thì nhận được những đuợc nguyên lý và giá trị của cái gọi là xã hội, đơn giản và thuần tuý là một thảm hoạ 1.
Quan điểm này dẫn chúng ta thẳng đến cốt lõi của vấn đề. Xã hội chúng ta không phải là một cộng đoàn rực rỡ với tình yêu của Chúa Kitô, mà là một mạng lưới thống trị lôi kéo nguy hiểm, chúng ta dễ dàng mắc bẫy và mất linh hồn. Vấn đề nền tảng là, chúng ta là những thừa tác viên của Giêsu Chúa Kitô, có từ chối để quyền lực của thế giới đen tối cám dỗ, uốn nắn hay không, để trở nên mù quáng đối với vận mệnh của chúng ta và của người khác, rồi đánh mất sức mạnh và động cơ bơi để được cứu sống.
Chúng ta chỉ cần quan sát một lát những thói quen hằng ngày. Thông thường chúng ta là những người rất bận rộn. Chúng ta phải tham dự nhiều cuộc họp, thực hiện nhiều cuộc thăm viếng, hướng dẫn nhiều dịch vụ. Lịch của chúng ta đầy những cuộc hẹn, hằng ngày hằng tuần đầy những cam kết, hằng năm đầy kế hoạch và dự án. Ít khi chúng ta có thời gian mà không biết làm gì và suốt cuộc đời, chúng ta đi vào một con đường lạc hướng như thế, rồi thậm chí không biết dùng thời giờ và ở yên để tự hỏi, có điều gì đáng để suy nghĩ, để nói hoặc để làm hay không. Chúng ta thường đồng hành với nhiều cái “phải” và “nên” trong cuộc đời và sống với nó như là bản dịch đích thực từ Tin mừng của Chúa. Người ta bị thúc giục phải đi lễ, tuổi trẻ phải được giải trí, tiền của phải được nhân lên, trên hết mọi người phải được hạnh phúc. Hơn nữa, chúng ta phải có quan hệ tốt với Giáo hội và với chính quyền; chúng ta phải được quý mến hay ít ra cũng phải được phần lớn giáo dân trong xứ kính trọng; chúng ta phải thăng tiến cấp bậc theo thời gian đã định; và chúng ta phải có đủ kỳ nghỉ và lương bổng để sống thoải mái. Tuy nhiên, chúng ta là những người bận rộn như mọi người, được lãnh phần thưởng dành cho những người bận rộn!
Tất cả những điều trên chỉ là những gợi ý rất trần tục mà đời sống thừa tác chúng ta hướng đến. Tại sao lại như vậy? Tại sao chúng ta là con cái ánh sáng, lại quá dễ dàng trở nên những kẻ chủ mưu với con cái bóng tối? Câu trả lời khá đơn giản. Căn tính của chúng ta, ý thức của chính chúng ta đang bị đe doạ. Thế tục là cách con người đáp ứng cho hoàn cảnh. Thomas Merton nói rằng cái tôi thế tục hoặc giả tạo là cái tôi được nguỵ trang bởi sự áp lực xã hội. Vậy nên, “áp lực” là tính từ đúng nhất để chỉ cái tôi giả tạo. Nó vạch ra cái nhu cầu cho sự khẳng định tiếp diễn và gia tăng. Tôi là ai? Tôi là người được quý mến, khen ngợi, thán phục, không thích, ghét hoặc bị xem thường. Tôi là người chơi piano, thương gia hoặc một bộ trưởng cũng không quan trọng, vấn đề là tôi được chấp nhận ra sao trong thế giới của tôi. Nếu người bận rộn là điều tốt thì tôi phải người người bận rộn. Nếu có tiền là một dấu hiệu của tự do thật, thì đòi hỏi tôi cũng phải có nhiều tiền bạc. Nếu như trở thành người quan trọng là điều hay thì tôi cũng phải thực hiện những cuộc tiếp xúc cần thiết. Người ta thể hiện áp lực của họ trong sợ hãi thất bại tiềm tàng và dai dẳng, họ cố gắng tránh điều này bằng cách gom góp những điều tương tự - nhiều công việc hơn, nhiều tiền bạc hơn, nhiều bạn bè hơn.
Chính những áp lực này là gốc rễ của hai kẻ thù chính của đời sống thiêng liêng là: giận dữ và tham lam. Chúng là mặt trong của đời sống thế tục, những trái đắng lệ thuộc trần thế của chúng ta. Phải chăng giận dữ còn là cái gì tệ hơn là lời đáp trả do áp lực đối với kinh nghiệm của con người bị tước đoạt? Khi cảm thức của cái tôi tuỳ thuộc vào những gì người khác nói, thì giận dữ là phản ứng khá tự nhiên với một lời phê bình. Và khi cảm thức của cái tôi tuỳ thuộc vào điều tôi có, thì tham lam sẽ bùng lên khi ước muốn của tôi không đạt được. Tuy nhiên, tham lam và giận dữ là anh chị em của cái tôi giả tạo, được nguỵ trang bởi áp lực xã hội, đến từ một thế giới không được cứu chuộc.
Giận dữ là gần như đóng kín với một thói xấu cố hữu trong thừa tác hiện nay. Các mục tử giận dữ vì những người lãnh đạo của họ không lãnh đạo và vì những đồ đệ của họ không bước theo. Họ giận dữ vì những người phải đi lễ không đi lễ và giận dữ vì những người đi lễ mà không sốt sắng. Họ giận dữ vì các gia đình đã làm cho họ tức tối và giận dữ với chính mình vì đã không là người như họ muốn. Đây không phải là một sự giận dữ thể hiện bên ngoài, rõ nét, om sòm mà là giận dữ sâu kín đằng sau những lời lẽ dịu dàng, nét mặt tươi cười và cái bắt tay tử tế. Nó là một sự giận dữ lạnh lùng, một sự giận dữ dồn nén những oán giận chua cay và từ từ làm tê liệt con tim quảng đại. Nếu có bất cứ điều gì làm cho thừa tác vụ thành nhẫn tâm đần độn, thì phải biết rằng trong các tôi tớ Chúa Kitô đã có bóng tối của giận dữ ẩn nấp.
Đó không phải là điều xa lạ lắm đối với thánh Antôn và các môn đệ của ngài, họ xem đó là một thảm hoạ thiêng liêng, nếu chấp nhận cách thụ động các nguyên lý và giá trị của xã hội. Họ ý thức rõ, để tránh khỏi áp lực cám dỗ thế gian là rất khó khăn, không chỉ đối với cá nhân kitô hữu nhưng cả với Giáo hội. Lời đáp trả của họ ra sao? Họ đã trốn khỏi con tàu đang chìm và bơi để cứu mạng. Và nơi chốn cứu độ gọi là sa mạc, nơi cô tịch. Bây giờ chúng ta hãy xem nơi cô tịch này nói gì với họ.
Lò luyện sự biến đổi
Khi thánh Antôn nghe lời của Chúa Giêsu, “hãy đi và bán những gì anh em có lấy tiền cho người nghèo ... rồi đến theo Tôi”, ngài đã hiểu nó như một tiếng gọi để trốn khỏi áp lực của thế gian. Ngài rời khỏi gia đình, sống nghèo khó trong một túp lều cạnh làng, lao động chân tay và cầu nguyện. Nhưng chẳng mất chốc, ngài nhận ra rằng cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa. Ngài phải đối diện trực tiếp với kẻ thù của mình - giận dữ và tham lam, và để chính mình được hoàn toàn biến đổi thành một con người mới. Cái tôi cũ giả tạo phải chết đi và con người mới phải được sinh ra. Vì thế, Antôn đã rút lui vào nơi cô tịch của sa mạc hoàn toàn.
Cô tịch là lò luyện của thay đổi. Không có sa mạc, chúng ta vẫn là nạn nhân của xã hội và tiếp tục bị mắc vào cạm bẫy ảo tưởng của cái tôi giả tạo. Chính Chúa Giêsu đã vào trong lò luyện này. Ở đó, Ngài đã chịu cám dỗ bởi ba áp lực thế gian: phải thức thời (“biến đá thành bánh”), kỳ diệu (“gieo mình xuống vực”) và quyền thế (“ta sẽ ban cho người tất cả các nước này”). Ở đó, Ngài đã khẳng định Thiên Chúa là lương thực duy nhất của Ngài (“ngươi phải thờ phượng Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phục vụ một mình Ngài”). Cô tịch là nơi của cuộc chiến đấu can trường và cuộc gặp gỡ quan trọng - chiến đấu chống lại áp lực của cái tôi giả tạo, và gặp gỡ Thiên Chúa tình yêu, Đấng hiến dâng chính mình là bản thể của cái tôi mới.
Điều này nghe có vẻ gay gắt hơn. Thậm chí nó khơi lên những hình ảnh người tu sĩ khổ hạnh thời trung cổ, mà Luther và Calvin đã hân hạnh cất giữ cho chúng ta. Nhưng một khi chúng ta đã bỏ đi những thứ hão huyền, thì chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta đang gắn liền với nơi thánh, nơi mà thừa tác vụ và linh đạo se kết với nhau. Đó là nơi được gọi là cô tịch.
Để hiểu được ý nghĩa của cô tịch, trước hết, chúng ta phải tìm lại đúng nghĩa chữ cô tịch, đã bị thế gian làm cho sai lệch. Chúng ta nói với nhau rằng, chúng ta cần cô tịch trong đời sống. Tuy nhiên, cái mà chúng ta đang thực sự nghĩ đến là một thời gian và một nơi chốn cho chính mình, ở đó chúng ta không bị quấy rầy do người khác, có thể suy nghĩ bằng chính tư tưởng của mình, bày tỏ những phiền hà của chính mình và làm việc của chính mình, bất cứ điều gì có thể. Đối với chúng ta, cô tịch thường có nghĩa là riêng tư. Chúng ta hay nghi ngờ rằng chúng ta có tất cả quyền cho riêng tư. Tuy nhiên, cô tịch trở nên như một quyền sở hữu thiêng liêng, chúng ta cạnh tranh để có nó trên thị trường tự do của các thiện hảo thiêng liêng. Nhưng còn hơn nữa, chúng ta cũng nghĩ về cô tịch như là một trạm dừng, ở đó chúng ta có thể sạc pin của chúng ta, hoặc như là một góc sân quyền anh, ở đó những vết thương được thoa dầu, cơ bắp được xoa bóp và những câu khẩu hiệu thích hợp giúp lấy lại can đảm. Tóm lại, chúng ta nghĩ về cô tịch như là một nơi chốn, ở đó chúng ta lấy lại sức mạnh để tiếp tục cuộc thi đấu đang diễn ra trong đời.
Tuy nhiên, đó không phải là cô tịch của thánh Gioan Tẩy Giả, của thánh Antôn, hoặc thánh Biển Đức, của Charles de Foucauld, hoặc của anh em cộng đoàn Taizé. Đối với họ, cô tịch không phải là một nơi chữa bệnh tư. Đúng hơn, đó là một nơi hoán cải, nơi cái tôi cũ phải chết đi, và cái tôi mới sinh ra, nơi đó người nam người nữ mới xuất hiện rõ ràng.
Chúng ta làm thế nào để có thể đạt đến sự hiểu biết rõ ràng hơn về sự cô tịch có tính biến đổi? Tôi cố gắng mô tả chi tiết hơn cuộc chiến đấu, cũng như cuộc gặp gỡ diễn ra trong sự cô tịch này.
Trong cô tịch, chúng ta bỏ đi cái dàn giáo: không bạn bè để trò chuyện, không điện thoại để gọi, không cuộc họp để tham dự, không âm nhạc để giải trí, không sách báo để thư giãn, chỉ mình tôi - trần trụi, dễ tổn thương, yếu đuối, tội lỗi, thiếu thốn, tuyệt vọng – không gì cả. Tôi phải đối diện với cái hư vô trong cô tịch của tôi, một cái hư vô khủng khiếp đến nỗi mọi thứ trong tôi đều muốn chạy đến với bạn bè, công việc và giải trí để tôi có thể quên đi cái hư vô của tôi, và làm cho chính tôi tin rằng tôi là điều gì đó xứng đáng. Nhưng đó không là gì cả. Chẳng mấy chốc tôi quyết định ở lại trong cô tịch của tôi, từ chối ý tưởng, những hình ảnh nhiễu sóng, những tưởng tượng hão huyền lung tung, những thứ liên tưởng kỳ quặc nhảy trong đầu tôi, như những con khỉ trên một cây chuối. Giận dữ và tham lam bắt đầu biểu lộ gương mặt xấu xí của nó. Tôi đưa đến cho kẻ thù của tôi những lời nói hận thù, dài dòng và mơ những giấc mơ đầy dục vọng, rằng tôi giàu có, uy thế và rất quyến rũ - hoặc nghèo khó, xấu xí và cần được an ủi tức khắc. Tuy nhiên, tôi lại cố gắng chạy khỏi cái vực thẳm tăm tối hư vô của tôi và phục hồi cái tôi giả tạo trong sự hão danh của nó.
Nhiệm vụ của tôi là phải kiên nhẫn trong cô tịch, ở lại trong phòng cho tới khi tất cả những kẻ viếng thăm quyến rũ chán gõ cửa và để tôi lại một mình. Bức tranh “Isenheim Altar” của hoạ sĩ Grunewald, theo chủ nghĩa duy thực cực đoan, trình bày bộ mặt xấu xí của nhiều tên quỷ cám dỗ thánh Antôn, trong sự cô tịch của ngài. Cuộc chiến đấu là có thật bởi vì nguy hiểm là có thật. Đó là cái nguy hiểm tồn tại suốt cuộc đời, như một cuộc phòng thủ triền miên chống lại sự thật của thân phận con người, một cố gắng không mệt mỏi để chiến thắng chính mình bằng nhân đức. Do đó, Chúa Giêsu “không đến kêu gọi người công chính mà kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).
Đó là cuộc chiến đấu. Cuộc chiến đấu để chết đi cho cái tôi giả tạo. Nhưng cuộc chiến này không dễ, nó vượt quá sức của chúng ta. Bất cứ ai muốn chiến đấu chống lại ma quỷ bằng vũ khí của riêng mình đều là người ngu xuẩn. Sự khôn ngoan của sa mạc là đương đầu với cái hư vô ghê gớm của chính mình, buộc chúng ta dâng hiến chính mình hoàn toàn và vô điều kiện cho Chúa Giêsu Kitô. Chỉ một mình, nếu chúng ta đối đầu với “mầu nhiệm sự dữ” thì khó tránh khỏi sự trừng phạt. Chỉ có Chúa Kitô có thể chiến thắng quyền lực sự dữ. Chỉ trong và qua Ngài, chúng ta có thể vượt qua thử thách cô tịch của chúng ta. Linh phụ Elia đã minh hoạ điều này rất hay, ngài nói: “một tôn sư sống trong một ngôi đền và ma quỷ đến nói với ông ta, “hãy cút khỏi nơi này, nó thuộc chúng tao,” và tôn sư nói “không có nơi nào thuộc về chúng bay”. Rồi chúng bắt đầu hất tung những lá cọ ra, từng chiếc một, và tôn sư tiếp tục gom xếp chúng lại với sự kiên nhẫn. Một lát sau, quỷ nắm tay ông ta kéo ra cửa. Khi trưởng thượng chạm đến cửa, ông ta nắm được thanh cửa và kêu lên, “lạy Chúa Giêsu, xin cứu con”. Ngay lập tức, quỷ trốn đi. Rồi vị trưởng thượng bắt đầu than khóc. Chúa nói với ông, “tại sao con khóc?” Ngài nói, “bởi vì ma quỷ dám bắt một người và đối xử với người ấy như vậy”. Chúa nói với ngài, “con đã bất cẩn. Ngay khi con quay lại với Ta, con thấy Ta ở bên cạnh con” 2. Câu chuyện này cho thấy chỉ trong bối cảnh có cuộc gặp gỡ quan trọng với chính Chúa Giêsu Kitô, mới diễn ra một cuộc chiến đấu đích thực. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu không diễn ra trước hoặc sau, hoặc ngoài cuộc chiến đấu với cái tôi giả của chúng ta và thần dữ của nó. Không, ở giữa cuộc chiến đấu này Chúa chúng ta đã đến và nói với chúng ta, như Ngài nói với vị trưởng thượng trong câu chuyện rất rõ ràng: “ngay khi con quay về với Ta, con thấy Ta bên cạnh con”.
Trước hết, chúng ta vào cô tịch gặp Chúa và ở với Ngài, với một mình Ngài. Tuy nhiên, bổn phận quan trọng của chúng ta là không được quá chú ý đến nhiều bộ mặt của thần dữ, nhưng là hướng mắt trí khôn và tâm hồn vào Chúa, Đấng cứu độ chúng ta. Chỉ trong tình trạng ân sủng, chúng ta mới có thể đương đầu với tội lỗi; chỉ trong nơi chữa lành, chúng ta mới dám tỏ bày thương tích của mình; chỉ quy huớng tất cả vào Chúa Kitô, chúng ta mới dám tỏ bày những sợ hãi triền miền và đối diện với bản tính thật của mình. Khi chúng ta nhận ra rằng không phải chúng ta sống, mà là Đức Kitô sống trong chúng ta, Ngài là cái tôi thật của chúng ta, thì chúng ta có thể từ từ để cho những áp lực của chúng ta tan chảy và bắt đầu cảm nghiệm được tự do của con cái Thiên Chúa. Và khi đó, chúng ta có thể nhìn lại quá khứ với nụ cười và nhận ra rằng chúng ta không còn giận dữ và tham lam nữa.
Đối với chúng ta, tất cả những điều như vậy có ý nghĩa gì trong đời sống thường ngày? Thậm chí chúng ta không được mời gọi sống đời đan tu hoặc không có thể chất mạnh mẽ để vượt qua những khắc nghiệt của sa mạc, thì chúng ta có chịu trách nhiệm đối với cô tịch của mình không. Có, bởi vì môi trường thế tục cho chúng ta quá ít các kỷ luật thiêng liêng, chúng ta phải tự trau dồi cho mình. Thực vậy, chúng ta phải hình thành nên sa mạc của chúng ta, ở đó mỗi ngày chúng ta rút vào, rũ bỏ hết những áp lực và ở lại trong sự hiện diện chữa lành hiền dịu của Chúa. Không có một sa mạc như vậy, khi rao giảng Tin mừng cho tha nhân, chúng ta sẽ mất linh hồn. Nhưng với một nơi cư ngụ thiêng liêng như vậy, chúng ta sẽ ngày càng trở nên hoà hợp với Chúa, khi Nhân Danh Ngài rao giảng.
Điều cực kỳ quan trọng mà chúng ta cần thực hiện, là dành một thời gian và một nơi chốn để ở với Chúa, với một mình Chúa. Hình thức cụ thể của kỷ luật cô tịch mỗi người sẽ khác nhau tuỳ vào tính cách cá nhân, bổn phận sứ vụ và môi trường. Tuy nhiên, phải có một kỷ luật cụ thể không mơ hồ hoặc đại khái - cụ thể và rõ ràng như chính cuộc sống hằng ngày vậy. Cách đây vài năm, tôi đi thăm Mẹ Têrêsa Calcutta và hỏi Mẹ, làm sao để sống cho xứng đáng ơn gọi của tôi, là một linh mục, Mẹ nói đơn giản: “ mỗi ngày dùng một giờ cho việc thờ phượng Chúa và đừng bao giờ làm điều cha biết là sai, và cha sẽ bình yên”. Mẹ còn nói những điều khác nữa cho người đã kết hôn, có những cháu nhỏ và những điều khác nữa cho người sống trong một cộng đoàn lớn hơn. Cũng như tất cả các môn đệ tuyệt vời của Chúa Giêsu, lại một lần nữa Mẹ Terêsa chân nhận rằng, thừa tác vụ chỉ sinh hoa kết quả, nếu nó lớn lên từ cuộc gặp gỡ trực tiếp và thân mật với Chúa. Vì vậy, xuyên suốt dòng lịch sử, những lời mở đầu trong thư thứ nhất của thánh Gioan còn vang vọng: “điều ... chúng tôi đã nghe, và chúng ta đã thấy tận mắt; điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến: đó là Lời sự sống – đó là đề tài của chúng tôi” (1Ga 1,1).
Như thế, cô tịch là nơi thanh tẩy và biến đổi, nơi của cuộc chiến đấu cam go và cuộc gặp gỡ quan trọng. Cô tịch không đơn giản là một phương thế để đi đến một mục đích. Cô tịch chính là mục đích. Đó là nơi Đức Kitô uốn nắn chúng ta theo hình ảnh Ngài và giải thoát chúng ta khỏi áp lực lừa phỉnh của thế gian. Cô tịch là nơi cứu độ của chúng ta. Vì thế, cô tịch cũng là nơi chúng ta muốn dẫn mọi người đang tìm kiếm ánh sáng trong thế giới tối tăm này vào. Thánh Antôn đã sống ẩn dật 20 năm. Khi ngài rời bỏ nơi đó thì cô tịch đã ở với ngài và ngài chia sẻ điều đó cho mọi người đến với ngài. Những người gặp ngài, đã diễn tả: ngài là người quân bình, hiền lành và ân cần. Ngài trở nên rất giống như Chúa Kitô (Christlike), rất rạng rỡ với tình yêu Thiên Chúa, toàn thể con người ngài là thừa tác vụ.
Bây giờ, tôi xin trình bày một thừa tác vụ đầy lòng trắc ẩn đến từ một con người được biến đổi ra sao.
Thừa tác vụ lòng trắc ẩn
Cuộc đời thánh Antôn, sau khi trải qua giai đoạn sống hoàn toàn ẩn dật, Chúa chúc lành cho ngài qua thừa tác vụ đa dạng, phong phú. Dân chúng ở mọi tầng lớp xã hội đến với ngài để xin lời khuyên. Ban đầu, cô tịch đòi hỏi sự xa cách thể lý, bây giờ trở thành một đức tính của con tim, một thiên hướng nội tâm không còn bị khuấy động bởi những người cần sự hướng dẫn của ngài. Dù thế nào, thì cô tịch cũng trở thành một không gian vô hạn dành cho bất cứ ai được mời gọi. Lời khuyên của ngài đơn giản, thẳng thắn và cụ thể: “một người hỏi: ‘người ta phải làm gì để làm vui lòng Chúa?’ Vị trưởng thượng trả lời, ‘ hãy chú ý đến điều tôi nói với bạn: dù bạn là ai, thì Chúa cũng luôn hiện diện trước mặt bạn; dù bạn làm gì, thì cũng hãy làm theo lời chứng của Thánh Kinh; dù bạn ở đâu, thì cũng đừng dễ dàng rời bỏ đó. Hãy tuân giữ ba lời giáo huấn này, thì bạn sẽ được cứu”3.
Với linh phụ Pambo, người đã hỏi thánh Biển Đức, “tôi phải làm gì?” Vị trưởng thượng nói: “Đừng tin vào sự công chính của bạn, đừng lo lắng về quá khứ, nhưng hãy kiểm soát miệng lưỡi và lòng dạ của bạn”. Hướng đến tương lai, thánh Antôn đã nói những lời có tính mới mẻ rất lạ lùng: “ở một thời, khi mọi người hoá điên, và họ nhìn một người nào đó không điên, họ sẽ tấn công anh ta và nói ‘anh là thằng điên, anh không như chúng tôi’” 4. Qua cuộc chiến đấu với ma quỷ và cuộc gặp gỡ Chúa, Antôn đã học bắt mạch con tim người ta và tâm trạng của người thời đại và nhờ đó mà ban phát sự nhận thức sâu xa, an ủi vỗ về. Cô tịch đã biến ngài thành một người có lòng trắc ẩn.
Ở đây, chúng ta đụng chạm tới điểm mà thừa tác vụ và linh đạo se kết với nhau. Đó là lòng trắc ẩn. Lòng trắc ẩn là hoa quả của cô tịch và nền tảng của mọi thừa tác vụ. Thanh tẩy và biến đổi diễn ra trong cô tịch sẽ thể hiện qua lòng trắc ẩn.
Để có được lòng trắc ẩn rất cam go nên chúng ta không được đánh giá thấp. Trắc ẩn thì cam go bởi vì nó đòi hỏi thiên hướng nội tâm để cùng với tha nhân đi đến nơi, ở đó họ thật yếu đuối, dễ tổn thương, cô đơn và khốn cùng. Nhưng đó không phải là sự đáp ứng tức thì cho đau khổ của chúng ta. Điều mà chúng ta mong muốn nhất là tiêu diệt đau khổ bằng việc trốn chạy khỏi đó hoặc tìm ra một phương thuốc chữa lành nhanh chóng. Y như những thừa tác viên bận rộn, năng nổ, thích nghi, chúng ta muốn tự kiếm cơm bánh bằng cách thực hiện một việc đóng góp cụ thể. Điều này có nghĩa trước hết, và trên hết, là làm một việc gì đó để cho thấy rằng sự hiện diện của mình làm nên một khác biệt. Vì thế, chúng ta phớt lờ đi ân huệ lớn nhất là khả năng liên đới với những người đau khổ.
Chính trong cô tịch mà tính liên đới của lòng trắc ẩn tăng trưởng. Trong cô tịch chúng ta nhận ra rằng không có ai là người xa lạ, rằng gốc rễ của tất cả những xung khắc, chiến tranh, bất công, độc ác, thù oán, ghen tương và thèm muốn cắm rễ sâu tận đáy lòng chúng ta. Trong cô tịch, con tim chai đá của chúng ta có thể biến đổi thành con tim bằng thịt, một con tim nổi loạn thành một con tim sám hối, và một con tim khép kín thành một con tim cởi mở với mọi người đau khổ, qua biểu hiện của tình liên đới.
Nếu bạn hỏi các tổ phụ sa mạc tại sao cô tịch lại phát sinh lòng trắc ẩn, họ sẽ nói, “bởi vì cô tịch khiến chúng ta chết đi cho người lân cận”. Thoạt đầu, câu trả lời này tưởng chừng như khá khó hiểu với suy nghĩ của người thời hiện đại. Nhưng khi chúng ta xét kỹ hơn, chúng ta sẽ thấy rằng để mưu ích cho tha nhân chúng ta phải chết đi cho họ; đó là, chúng ta phải đo lường ý nghĩa và giá trị theo các tiêu chuẩn của tha nhân. Chết đi cho tha nhân nghĩa là ngưng xét đoán họ, ngưng đánh giá họ và như thế, sẽ đương nhiên có lòng trắc ẩn. Lòng trắc ẩn không bao giờ cùng tồn tại với xét đoán bởi vì xét đoán tạo nên khoảng cách, sự phân biệt, ngăn cản chúng ta thực sự gần gũi tha nhân.
Nhiều khi chúng ta thi hành thừa tác vụ với đầy những xét đoán. Một cách không ý thức, chúng ta xếp loại người ta là rất tốt, tốt, trung bình, xấu và rất xấu. Những xét đoán này ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng, lời nói và công việc thừa tác viên. Trước khi chúng ta hiểu biết, chúng ta đã rơi vào cạm bẫy của lời tiên đoán tiêu cực. Những ai chúng ta coi là biếng nhác, vô cảm, độc ác hoặc đáng ghét, thì chúng ta sẽ đối xử với họ như vậy, bằng cách đó ép buộc họ sống theo quan niệm của chúng ta. Và như thế, các cám dỗ xét đoán giới hạn nhiều thừa tác vụ của chúng ta. Những giới hạn tự tạo đó ngăn cản chúng ta đến với kẻ khác và làm héo mòn lòng trắc ẩn của chúng ta.
Vậy nên, rất cam go để sống lời dạy của Chúa, “đừng xét đoán anh em sẽ không bị xét đoán”. Tuy nhiên, đó là chìa khoá của thừa tác vụ về lòng thương xót. Điều đó rất rõ ràng trong nhiều câu chuyện về sa mạc. Linh phụ Môsê, một trong những đồ của thánh Antôn đã nói với một anh em: “Chết cho người thân cận là đây. Hãy mang lấy tội lỗi của bạn và đừng lưu ý đến người khác nữa, rồi cứ tự hỏi họ tốt hay xấu. Đừng làm hại ai, đừng nghĩ xấu cho kẻ khác, đừng khinh rẻ kẻ làm điều xấu, đừng tin tưởng người làm điều sai trái cho tha nhân... đừng có ác cảm với ai và đừng để lòng thù ghét thống trị bạn” 5. Và với một hình ảnh thật sinh động đặc sắc về sa mạc, thâu tóm tất cả trong vài lời: “Một người thật dở hơi, khi trong nhà mình có người chết, lại bỏ nhà, đi than khóc cho cái chết của người hàng xóm” 6.
Cô tịch đưa đến ý thức về người chết trong chính nhà của mình và giữ chúng ta tránh đưa ra xét đoán về tội lỗi kẻ khác. Bằng cách đó, tha thứ thật lòng trở nên dễ dàng hơn. Câu chuyện sa mạc tiếp theo đây cho chúng một minh hoạ rất hay: “một anh em... đã phạm một lỗi. Một cuộc họp được triệu tập, linh phụ Môsê được mời nhưng ngài đã từ chối tham dự. Rồi vị linh mục đã sai một người đến nói với ngài, “Xin cha đến vì mọi người đang đợi cha”. Ngài đứng dậy và đi. Ngài lấy một cái bình rò rỉ, đổ đầy nước vào đó và đem theo. Những người khác ra gặp ngài và nói với ngài: “Thưa cha, cái gì vậy? Vị trưởng thượng nói với họ, “Tội của tôi chảy ra sau tôi và tôi không thấy chúng và hôm nay tôi đến để xét xử lỗi lầm của kẻ khác”. Khi họ nghe như thế, họ không lên án người anh em nữa nhưng tha thứ” 7.
Ở đây, rõ ràng là cô tịch uốn nắn người tự cho mình là công chính thành người hiền lành, biết quan tâm, tha thứ, ý thức sâu sắc về tội lỗi nặng nề của họ, dù vậy họ ý thức rất rõ lòng thương xót Chúa còn lớn lao hơn, mà chính cuộc sống của họ trở thành thừa tác vụ.
Một thừa tác vụ như thế không có gì khác biệt giữa cái làm và cái là. Khi chúng ta được đầy lòng thương xót Chúa, chúng ta không làm gì khác ngoài là thừa tác viên, vì tất cả con người chúng ta làm chứng cho ánh sáng đã đến trong bóng tối. Sau đây là hai câu chuyện từ sa mạc trình bày thừa tác vụ có tính trắc ẩn, tinh tế:
“Một môn đệ của thánh Antôn là linh phụ Ammonas đã kể về cô tịch của ngài, ‘ngài đã đạt đến mức độ, nơi đó sự thiện hảo của ngài quá tuyệt vời đến nỗi ngài không để ý gì đến bất cứ điều dữ nào’. Vì thế, khi trở thành giám mục, người ta đem đến cho ngài một thiếu nữ đang có thai, họ nói ‘xin ngài xem con bé bất hạnh này đã làm gì; hãy ra việc đền tội cho nó. Thế nhưng, ngài đã ghi dấu thánh giá trên bụng cô gái và ra lệnh phải tặng cô gái sáu cặp khăn trải giường tốt, ngài nói sợ rằng, khi cô sinh nở, cô sẽ chết, cô hoặc đứa con và không có gì để liệm’. Nhưng kẻ tố cáo cô ta đã nói, ‘tại sao ngài làm như thế? Hãy đưa ra cho cô ta một hình phạt’. Ngài nói với họ, ‘này các anh em, cô ta đến gần cái chết rồi; tôi phải làm gì?’. Rồi ngài bảo cô ta đi, không ai còn dám tố cáo nữa” 8.
Đó là một câu chuyện minh hoạ thật chí lý rằng: người có lòng trắc ẩn rất ý thức về đau khổ của tha nhân, đến nỗi không thể tiếp tục để họ ở trong tình trạng tội lỗi. Câu chuyện thứ hai nêu rõ: là một thừa tác viên lòng trắc ẩn thì phải có sự quan tâm và nhạy cảm ra sao.
“Ba vị trưởng thượng, một trong ba vị có tiếng là xấu tính, một ngày nọ đến với linh phụ Achilles. Người thứ nhất yêu cầu ngài, ‘Thưa cha, xin làm cho con một cái lưới cá’. Ngài trả lời, ‘Ta không làm’. Người thứ hai nói, vì bác ái xin cha làm một cái, để đan viện chúng con có kỷ vật của ngài’. Nhưng ngài nói, ‘Ta không có thời gian’. Rồi người thứ ba có tiếng là tội lỗi nói, ‘Thưa cha, xin làm cho con một cái lưới cá, để con có kỷ vật do bàn tay cha làm’. Linh phụ Achilles trả lời ngay, ‘ta sẽ làm điều anh xin’. Rồi hai người kia hỏi riêng ngài, ‘Tại sao ngài không muốn thực hiện điều chúng con xin, nhưng lại hứa thực hiện khi anh ấy xin’? Vị trưởng thượng trả lời, ‘ta đã nói với các con, ta làm một cái và các con sẽ không thất vọng, bởi vì các con nghĩ ta không có thời gian. Nhưng nếu ta không làm một cái cho anh ta, anh ta sẽ nói, “ngài đã nghe chuyện tội lỗi của tôi, vì thế đã không làm cho tôi bất cứ điều gì’, và như thế mối tương quan của chúng ta sẽ tồi tệ. Nhưng bây giờ ta khích lệ tâm hồn anh ta, nên anh ta sẽ không mất hết tinh thần vì buồn sầu”9.
Quả thực, đây là thừa tác vụ có hình thức tinh ròng nhất, một thừa tác vụ lòng trắc ẩn sinh ra từ cô tịch. Thánh Antôn và các môn đệ đã trốn khỏi áp lực thế gian, không vì xem thường người đời nhưng để cứu họ. Thomas Merton, mô tả các đan sĩ này là những người bơi để khỏi chìm mất mạng trong chiếc tàu thế gian đang chìm, ngài nhấn mạnh rằng:
“Các đan sĩ biết rằng họ không thể làm điều gì thiện hảo cho tha nhân bao lâu họ còn chơi vơi ngụp lặn trên mảnh vụn trôi dạt. Nhưng một khi họ có một vị trí vững chắc trên đất vững, thì mọi sự sẽ khác biệt. Họ không chỉ có sức mạnh, nhưng thậm chí còn có công kéo toàn bộ thế giới đến chỗ an toàn theo họ”10.
Vì thế, trong và qua cô tịch chúng ta không rời bỏ tha nhân. Trái lại, chúng ta đến gần họ hơn qua thừa tác vụ lòng trắc ẩn.
Tóm lại
Sống trong một thế giới có thể biến chúng ta thành nạn nhân. Bởi áp lực của nó, chúng ta được mời gọi đến cô tịch, ở đó chúng ta chiến đấu chống lại tính giận dữ và tham lam, và để cho con người mới được sinh ra trong cuộc gặp gỡ yêu thương với Chúa Giêsu Kitô. Chính trong cô tịch đó, chúng ta trở thành người có lòng trắc ẩn, ý thức sâu xa về tình liên đới của chúng ta bị đứt quãng với toàn nhân loại, và sẵn sàng đến với bất cứ ai đang cần.
Phần cuối câu chuyện của thánh Antôn cho thấy, sau nhiều năm trong thừa tác vụ của lòng trắc ẩn, ngài trở về cô tịch để hoàn toàn chìm đắm trong kết hợp với Thiên Chúa. Một trong những câu chuyện sa mạc kể lại cho chúng ta về một tôn sư nọ xin Chúa cho gặp các tổ phụ. Chúa nhận lời cầu nguyện và ngài thăm tất cả tổ phụ trừ Antôn. “Vì thế, ngài xin Chúa hướng dẫn, ‘linh phụ Antôn ở đâu?’. Chúa trả lời ngài rằng, ‘Antôn ở trong nơi Thiên Chúa ngự”. Việc nhận biết rằng toàn bộ cuộc đời của thánh Antôn chìm đắm trong Chúa là rất quan trọng đối với chúng ta. Cốt lõi cuộc đời chúng ta không ở nơi loài người, nhưng ở nơi Thiên Chúa. Chỉ trong Người chúng ta tìm được sự nghỉ ngơi. Cho nên chúng ta phải trở về cô tịch, không phải một mình nhưng với tất cả những người chúng ta cưu mang trong thừa tác vụ. Cuộc trở về còn tiếp tục cho tới khi chính Thiên Chúa, Đấng sai chúng ta vào thế gian, gọi chúng ta trở về với Ngài trong sự kết hiệp vĩnh hằng.
Thinh lặng
Dẫn nhập
Khi Arsenius, nhà sư phạm ở Roma, rời bỏ địa vị và sang giàu của mình để vào nơi cô tịch của sa mạc Ai cập, ngài cầu nguyện rằng, “Lạy Chúa, xin dẫn con vào đường ơn cứu độ”, ngài nghe tiếng nói, “Hãy thinh lặng”. Thinh lặng hoàn toàn và tăng cường cô tịch. Dưới đây là xác tín mà các tổ phụ sa mạc đã chia sẻ. Một câu chuyện hấp dẫn về viện phụ Macarius, sau khi ban phép lành cho anh em trong nhà thờ ở Scete, ngài nói với anh em, “này anh em, hãy bay”. Một trong những trưởng thượng trả lời ngài rằng, ‘Làm sao chúng ta có thể bay xa hơn chỗ này, chúng ta đang ở đây mà lại nghĩ về sa mạc phải không?’ Rồi Macarius đặt ngón tay lên miệng và nói, ‘Bay khỏi cái này’. Nói thế rồi, ngài vào phòng và đóng cửa” 1.
Thinh lặng là cách biến cô tịch thành hiện thực. Các tổ phụ sa mạc đề cao thinh lặng như là con đường an toàn nhất đến với Chúa. Arsenius nói: “Tôi thường hối tiếc vì đã nói chuyện, nhưng chẳng bao giờ giữ thinh lặng”. Một ngày nọ tổng giám mục Theophilus đến sa mạc để thăm linh phụ Pambo. Nhưng linh phụ Pombo không nói gì với ngài. Cuối cùng, các anh em nói với Pambo, “Thưa cha, xin nói điều gì đó với tổng giám mục để xây dựng, ngài trả lời: ‘Nếu ngài không được xây dựng bởi sự thinh lặng của ta, thì ngài cũng không được xây dựng vì lời nói của ta”2.
Thinh lặng là kỷ luật rất cần thiết trong đời sống thiêng liêng. Kể từ khi thánh Giacôbê Tông Đồ mô tả cái lưỡi là “Cả một thế giới sự ác” (Gc3,6) và thinh lặng như “Tra hàm thiếc vào miệng ngựa” (Gc3,3), các kitô hữu cố gắng để thực hành thinh lặng như cách tự kiềm chế. Thinh lặng hiển nhiên là một kỷ luật cần thiết trong nhiều hoàn cảnh khác nhau: trong dạy dỗ và học hành, trong rao giảng và thờ phượng, trong thăm viếng và khuyên bảo. Thinh lặng là kỷ luật rất cụ thể, thực tế và hữu ích trong mọi trách nhiệm thừa tác vụ của chúng ta. Thinh lặng là thực hành của cô tịch.
Trong suy tư này, trước hết, tôi trình bày: chúng ta dùng lời nói ra sao trong thế giới này. Kế đến, tôi mô tả giá trị quan trọng của thinh lặng trong thế giới lời này. Cuối cùng, tôi xin trình bày thinh lặng là một dấu chỉ hiện diện của Thiên Chúa, trong các hình thái đặc biệt của thừa tác vụ.
Thế giới lời nói
Suốt vài thập niên vừa qua, thế giới chúng ta tràn ngập như thác lũ lời lẽ. Nơi nào chúng ta đến cũng đầy lời lẽ: lời thì thầm êm ái, lời tuyên bố ầm ầm hoặc tiếng kêu la giận dữ; lời nói, lời kể chuyện hoặc ca hát; lời ghi âm, in trong sách, ghi trên tường, hoặc trên bầu trời; lời nhiều giọng, nhiều màu sắc, hoặc nhiều hình thức; lời để nghe, đọc, nhìn hoặc liếc qua; lời nhấp nháy ẩn hiện, di chuyển chậm rãi, nhảy múa hoặc lắc lư. Lời lẽ, lời lẽ, lời lẽ! Chúng gắn trên trên nền, trên tường và trên trần nhà ở của chúng ta.
Chưa từng có như thế. Trước đây một thời gian không lâu gì lắm, không có radiô, ti vi, bảng dừng, bảng nhường đuờng, bảng sáp nhập, câu chữ gắn trên xe hơi và các tin rao liên tục cho biết bán hàng giá tăng hoặc giảm giá. Đã có một thời gian không có quảng cáo, còn bây giờ thì tràn ngập khắp các thành phố đầy những câu chữ.
Mới đây tôi lái xe qua Los Angeless và bất chợt tôi có một cảm giác lạ lùng như đang chạy ngang một quyển từ điển vĩ đại. Chỗ nào tôi cũng thấy có từ ngữ cố gắng hướng mắt tôi ra khỏi đường lộ. Đó là: “Hãy dùng tôi, hãy lấy tôi, hãy mua tôi, hãy uống tôi, hãy ngửi tôi, hãy sờ tôi, hãy hôn tôi và hãy ngủ với tôi”. Trong một thế giới như thế ai còn có thể tôn kính lời nói nữa?
Tôi muốn nói rằng tất cả điều này gợi lên rằng lời nói mất đi sức mạnh sáng tạo của nó. Những biến thiên không giới hạn của lời lẽ khiến chúng ta mất tin tưởng vào lời nói và làm cho chúng ta rất thường nghĩ ‘chúng chỉ là xáo ngữ’.
Các thầy giáo dạy học sinh mất 6, 12, 18 và đôi khi 24 năm. Nhưng từ kinh nghiệm, các học sinh thường có những cảm tưởng ‘đó chỉ là lý thuyết’. Các nhà giảng thuyết giảng Lời Chúa tuần này qua tuần khác, năm này qua năm khác. Nhưng giáo dân của họ cũng có cảm giác tương tự và thường nghĩ “đó chỉ là lý thuyết”. Các nhà chính trị, thương gia, các thủ lãnh hồi giáo và các giáo hoàng đọc diễn văn và thực hiện các bài phát biểu “hết mùa này đến mùa khác”, nhưng các thính giả nói, ‘đó chỉ là lý thuyết... chỉ là một kiểu giải trí khác”.
Hậu quả của điều này làm mất đi chức năng chính yếu của lời là truyền thông. Lời không còn truyền thông, không còn nuôi dưỡng hiệp thông, không còn làm nên cộng đoàn và không còn đem lại sự sống, không còn là nền tảng đáng tin cậy để người ta dùng để trao đổi và xây dựng xã hội.
Tôi có phóng đại quá không? Chúng ta hãy để ý một chút vào việc đào tạo thần học. Mục tiêu của việc đào tạo thần học có là gì khác hơn việc đem chúng ta đến gần Chúa, Thiên Chúa chúng ta, để chúng ta tin mạnh mẽ hơn vào điều răn quan trọng nhất: “Yêu mến Ngài hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn và yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22, 37)? Các chủng viện và các trường thần học phải dẫn sinh viên thần học vào hiệp thông với Chúa và với nhau và người đồng loại mạnh mẽ hơn. Việc đào tạo thần học được hiểu là đào tạo toàn bộ con người chúng ta nhằm tăng cường thích nghi với tinh thần của Chúa Kitô, để cho cách cầu nguyện và cách tin tưởng của chúng ta trở nên một.
Nhưng chuyện gì xảy ra ở đây? Thông thường, tưởng chừng như chúng ta là người học hoặc người dạy thấy mình lúng túng trong mạng lưới rất phức tạp, nào là bàn thảo, tranh luận và lý luận về Chúa và “vấn đề Thiên Chúa”, trong khi đó một cuộc đối thoại đơn giản với Chúa hoặc là hiện diện một mình với Chúa lại không thể thực hiện. Khả năng ăn nói giỏi giúp chúng ta có thể thực hiện nhiều việc biện phân, nhưng đôi khi trở nên thứ thay thế nghèo nàn, đối với mục tiêu dấn thân duy nhất của chúng ta là Ngôi Lời ban sự sống. Nếu có một sự khủng hoảng về giáo dục thần học, thì trước hết và trên hết, là sự khủng hoảng về lời. Ở đây, không có ý nói rằng công tác phê bình lý trí và việc biện phân khôn ngoan cần phải có, đã không có chỗ trong chương trình đào tạo; nhưng chỉ muốn nói, khi lời của chúng ta không còn là một phản chiếu của Ngôi Lời Thiên Chúa, trong và qua Ngôi Lời, thế giới được tạo dựng và cứu chuộc, thì chúng mất nền tảng và trở nên giống những lời nói quyến rũ và lầm lạc, có thể dẫn đến nguy hiểm, như việc bán thuốc không kê đơn vậy.
Rõ ràng đã có một thời, môi trường đào tạo thần học là các đan viện. Những lời này phát sinh từ thinh lặng và có thể dẫn người ta đi sâu vào thinh lặng. Mặc dù, hầu như các đan viện không còn là những nơi phổ biến cho việc đào tạo thần học, ngày nay thinh lặng vẫn rất cần thiết không thể thiếu như trong quá khứ vậy. Ngôi Lời Thiên Chúa sinh ra từ thinh lặng vĩnh cửu của Thiên Chúa và vì Ngôi Lời này đến từ thinh lặng mà chúng ta muốn là những người làm chứng.
Thinh lặng
Thinh lặng là nhà ở của lời. Thinh lặng ban sức mạnh và hoa trái cho lời. Thậm chí chúng ta có thể nói, lời được dùng để khai mở mầu nhiệm thinh lặng.
Triết gia Lão Giáo Chuang Tzu diễn tả chí lý thinh lặng như sau: mục đích của cái bẫy cá là để bắt cá và khi đã bắt được cá, thì quên đi cái bẫy. Mục tiêu của cái bẫy thỏ là bắt thỏ. Khi bắt được thỏ thì quên đi cái bẫy. Mục tiêu của lời là để vận chuyển ý tưởng. Khi ý tưởng đã hiểu thấu thì quên lời. Tôi tìm người quên lời ở đâu? Đó là người tôi muốn nói chuyện 3.
“Tôi muốn nói chuyện với người quên lời”. Điều đó muốn nói đến một trong những tổ phụ sa mạc. Đối với họ, lời là phương tiện của thế giới hiện tại và thinh lặng là mầu nhiệm của thế giới tương lai. Để một lời sinh hoa trái thì nó phải được nói từ thế giới tương lai vào thế giới hiện tại. Bởi vậy, các tổ phụ sa mạc coi việc đi vào thinh lặng của sa mạc là bước đầu tiên để vào thế giới tương lai. Từ thế giới đó, lời họ có thể sinh hoa trái, bởi vì ở đó, họ được đầy tràn sức mạnh từ thinh lặng của Chúa.
Qua các lời dạy của các tổ phụ sa mạc, chúng ta có thể phân biệt ba khía cạnh thinh lặng. Cả ba đào sâu và củng cố ý tưởng chủ chốt rằng, thinh lặng là mầu nhiệm của thế giới tương lai. Trước hết, thinh lặng biến chúng ta thành những kẻ hành hương. Thứ nhì, thinh lặng bảo vệ ngọn lửa bên trong. Thứ ba, thinh lặng dạy chúng ta nói.
Thinh lặng biến chúng ta thành những người hành hương
Một ngày kia linh phụ Tithoes nói, “Đi hành hương có nghĩa là người ta kiểm soát cái lưỡi họ”. Thành ngữ “đi hành hương là giữ thinh lặng” (peregrinatio est tacere), diễn tả xác tín của các tổ phụ sa mạc rằng thinh lặng là sự nếm trước tuyệt vời nhất thế giới tương lai” 4. Lý lẽ thông thường nhất biện minh cho thinh lặng đơn giản là lời nói dẫn đến tội lỗi. Vì vậy, con đường rõ ràng nhất để tránh xa tội lỗi là đừng nói chuyện. Cách liên kết này được Tông đồ Giacôbê diễn tả rõ ràng: “ ... tất cả chúng ta thường hay vấp ngã. Ai không vấp ngã về lời nói, ấy là người hoàn hảo, có khả năng kiềm chế toàn thân” (Gc 3,2). Thánh Giacôbê có chút nghi ngờ rằng: nói năng mà không phạm tội thì rất khó và trên đường về quê vĩnh hằng, nếu chúng ta không muốn để tội lỗi thế gian chạm đến thì thinh lặng là con đường an toàn nhất. Vì thế, thinh lặng trở thành một trong những kỷ luật chính yếu của đời sống thiêng liêng. Thánh Biển Đức, tổ phụ của đời sống đan tu Tây phương và là thánh quan thầy của Âu châu, đặt những điểm nhấn về thinh lặng trong tu luật của ngài. Ngài trích dẫn lời Vịnh gia: “Tôi đã nói: mình phải giữ gìn trong nếp sống, để khi ăn nói khỏi lỗi lầm” (Tv 39,1). Thánh Biển Đức không chỉ cảnh giác anh em nói điều dữ, nhưng còn nói họ tránh cả lời lành thánh, xây dựng, bởi vì như lời chép trong sách Châm ngôn, “người năng nói năng lỗi” (Cn 10,19). Nói nhiều là nguy hiểm và dễ dàng đưa dẫn người ta ra khỏi đường lành.
Những lời giáo huấn về lối tu khổ hạnh này nhấn mạnh ý tưởng chính yếu là, nói chuyện kéo chúng ta vào công việc thế tục và thật khó mà không bị lung lạc và ô nhiễm bởi thế tục. Các tổ phụ sa mạc và tất cả các đồ đệ theo bước các ngài “biết rằng mọi cuộc đối thoại hướng họ chú ý vào chuyện thế gian, khiến lòng họ xa lạ với sa mạc và gần gũi với dân thành thị” 5.
Điều này nghe có vẻ quá thanh tao với chúng ta, nhưng hãy để chúng ta ít nhất là nhận biết rằng, thật khó khăn để rút lui khỏi một cuộc nói chuyện, một cuộc tranh luận, một cuộc tụ tập có tính xã hội hoặc gặp gỡ buôn bán, mà ta cảm thấy khó chịu. Phải chăng cuộc nói chuyện dài dòng hiếm khi đưa đến kết quả tốt hoặc thành công? Phải chăng chúng ta không dùng nhiều lời, hay không nói gì cứ để người ta hiểu ngầm thì tốt hơn? Chúng ta nói về những sự kiện trên thế giới, nhưng chúng ta có thực sự làm cho nó tốt hơn không? Chúng ta nói về dân chúng và đường lối của họ, nhưng lời nói của chúng ta có làm cho họ hoặc cho chúng ta điều tốt lành nào không? Chúng ta nói về những ý tưởng hoặc cảm tưởng của mình, ngay cả khi chúng được mọi người quan tâm, thì chúng ta có thực sự cảm thấy được thông hiểu không? Chúng ta nói đến những vấn đề quan trọng về Thiên Chúa và tôn giáo, nhưng nó có đem lại cho chúng ta hoặc tha nhân, sự khôn ngoan đích thực không? Lời nói thường để lại cho chúng ta một cảm giác hụt hẫng nội tâm. Thậm chí chúng có thể tạo nên một cảm giác tê liệt và một cảm tưởng bị sa lầy trong đống bùn. Lời nói thường để lại trong chúng ta sự sa sút nhỏ hoặc là một cái xà che phủ con mắt linh hồn chúng ta. Tóm lại, lời nói cho chúng ta cảm tưởng dừng lại quá lâu ở một trong những ngôi làng nhỏ bé trên hành trình của chúng ta, vì động cơ hiếu kỳ hơn là phục vụ. Lời nói thường khiến chúng ta quên rằng chúng ta là những người hành hương, mời gọi tha nhân cùng gia nhập với hành trình của chúng ta. Peregrinatio est tacere. “Thinh lặng bảo vệ những kẻ hành hương”
Thinh lặng bảo vệ ngọn lửa nội tâm
Điều thứ hai, thinh lặng mang ý nghĩa tích cực hơn, đó là bảo vệ ngọn lửa nội tâm. Thinh lặng bảo vệ hơi nóng cảm xúc nội tâm của tu sĩ. Hơi nóng nội tâm là sự sống của Thánh Thần trong chúng ta. Vì thế, thinh lặng là kỷ luật nhờ đó ngọn lửa bên trong của Thiên Chúa được gìn giữ và tồn tại.
Diadochus of Photiki cho chúng ta một hình ảnh rất cụ thể: “Khi cái khoá phòng tắm hơi nóng còn mở, thì hơi nóng bên trong nhanh chóng thoát ra khỏi đó; tương tự như vậy, linh hồn ước muốn nói nhiều thứ, làm tiêu tan ký ức của Chúa qua cánh cửa lời nói, ngay cả khi mọi thứ nó nói là điều tốt. Sau đó trí năng, dù thiếu ý tưởng thích hợp, vẫn tuôn ra một mớ tư tưởng hỗn độn cho bất cứ ai nó gặp, vì nó không còn Thánh Thần gìn giữ hiểu biết của nó khỏi ảo tưởng điên cuồng. Ý tưởng có giá trị luôn luôn tránh xa tính dài dòng, xa lạ đưa tới lầm lẫn và ảo tưởng. Thêm vào đó, thinh lặng đúng lúc thì quý giá, vì nó là mẹ của những tư tưởng khôn ngoan nhất” 6.
Những lời này của Diadochus đi ngược với khuynh hướng sống của thời đại chúng ta, trong số những lời nói này, “chia sẻ” trở thành một trong những nhân đức quan trọng nhất. Chúng ta đã được chuẩn bị để tin rằng tình cảm, cảm xúc và thậm chí sự xúc động bên trong tâm hồn phải được chia sẻ với người khác. Những thành ngữ như là “cám ơn vì đã chia sẻ điều này với tôi”, hoặc là “thật vui khi chia sẻ điều này với bạn”, cho thấy rằng cái khoá của phòng tắm hơi của chúng ta mở hầu hết mọi lúc. Quả thật, người ta thích giữ kín và không muốn phơi bày đời sống nội tâm của họ, để gây ra trạng thái khó chịu và hay bị coi là gượng gạo, phi xã hội hoặc kỳ quặc. Tuy nhiên, ít nhất chúng ta nêu lên vấn đề, phải chăng những cách chia sẻ rộng rãi thì không có sức mạnh bằng nhân đức; thay vì xây dựng cộng đoàn, chúng lại nhắm đến làm phân tán đời sống chúng ta triền miên. Chúng ta thường trở về nhà sau một khoá học chia sẻ, và có cảm giác như là một điều quý đã bị tước khỏi chúng ta hoặc là đất thánh đã bị chà đạp lên. James Hannay khi chú giải về lời dạy của các tổ phụ sa mạc đã viết:
Miệng lưỡi không phải là một cánh cửa mà bất cứ tội lỗi nào cũng có thể đi vào. Tai là những cánh cửa như thế, mắt cũng vậy. Miệng là cánh cửa chỉ dành cho việc thoát ra. Các tổ phụ sa mạc lo sợ để thoát mất điều gì? Điều gì người ta có thể cướp khỏi tâm hồn họ, như một tên trộm bắt mất chiến mã khỏi chuồng khi cánh cửa để mở? Không còn gì khác có thể hơn sức mạnh cảm xúc của người tu sĩ 7.
Điều cần được bảo vệ là sự sống của Thánh Thần bên trong chúng ta. Nhất là khi chúng ta muốn làm chứng cho sự hiện diện của Thánh Thần Chúa trong thế giới, thì phải quan tâm tối đa đến ngọn lửa nội tâm. Không lạ gì nhiều thừa tác viên trở nên những trường hợp tàn lụi, họ nói nhiều lời, chia sẻ nhiều kinh nghiệm nhưng ngọn lửa Thánh Thần bên trong họ đã tắt, và sức mạnh đến từ Thánh Thần không còn nhiều bằng những thứ đến từ chính họ, chẳng hạn như ý tưởng thú vị và những tình cảm. Đôi khi, dường như nhiều lời nói của chúng ta diễn tả sự nghi ngờ hơn là diễn tả lòng tin. Chúng ta không chắc chắc rằng Thánh Thần Chúa có thể đụng chạm đến tâm hồn của người ta, chúng ta phải góp phần thực hiện, và bằng lời nói, thuyết phục tha nhân bằng sức mạnh của Thánh Thần. Tuy nhiên, chắc chắn rằng những lời nói của kẻ thiếu đức tin sẽ dập tắt ngọn lửa Thánh Thần.
Nhiệm vụ trước hết và trên hết của chúng ta là trung thành quan tâm đến ngọn lửa bên trong để khi thật sự cần, có thể tặng ban hơi ấm và ánh sáng cho lữ khách thất lạc. Không ai trình bày điều này với sự xác tín hơn hoạ sĩ người Hà Lan là Vincent van Gogh:
“Có một ngọn lửa lớn trong tâm hồn chúng ta, nhưng chưa ai từng đến đó sưởi ấm, và chỉ những hành khách qua đường nhìn thấy một làn khỏi bay qua ống khói và tiếp tục đi theo đường của họ. Chúng ta phải làm gì bây giờ? Phải chăng người ta phải hướng vào ngọn lửa nội tâm, phải có muối trong họ, kiên nhẫn chờ đợi cả giờ đồng hồ, với biết bao nhiêu là bồn chồn, cho đến khi một người đến và ngồi xuống – có lẽ ở lại? Hãy để họ tin vào Chúa đợi chờ giờ phút đó đến sớm hơn hoặc trễ hơn” 8.
Vincent van Gogh nói điều đó bằng lý trí và con tim của các tổ phụ sa mạc. Ngài hiểu về cám dỗ mở hết các cửa để người qua đường thấy ngọn lửa, chứ không chỉ thấy làn khói bay qua ống khói. Nhưng ngài nhận ra rằng nếu cứ mở hết các cửa, thì ngọn lửa sẽ tắt và chẳng ai tìm thấy hơi ấm và sức mạnh mới. Đời sống của ngài là một gương mẫu hùng mạnh về lòng trung thành đối với ngọn lửa nội tâm. Suốt cuộc đời ngài, chẳng có ai đến ngồi nơi ngọn lửa của ngài, nhưng ngày nay, hàng ngàn người tìm được sự an ủi khích lệ trong các bức vẽ, tranh hội hoạ và văn chương của ngài.
Là các thừa tác viên, cám dỗ lớn nhất của chúng ta là tập trung quá nhiều đến lời nói. Chúng làm đức tin chúng ta ra yếu nhược và khiến chúng ta ra lãnh đạm. Nhưng thinh lặng là một kỷ luật thánh, một người bảo vệ của Thánh Thần.
Thinh lặng dạy chúng ta nói
Cách thứ ba, thinh lặng tự mạc khải chính nó là mầu nhiệm của thế giới tương lai, nhờ đó dạy chúng ta biết nói năng. Lời có sức mạnh là lời đến từ thinh lặng. Lời sinh hoa trái là lời sinh ra từ thinh lặng và trở về với thinh lặng. Đó là lời nhắc nhở chúng ta về thinh lặng, từ thinh lặng mà đến và dẫn chúng ta trở về với thinh lặng. Lời không bám rễ trong thinh lặng là lời yếu đuối, không có sức mạnh, tựa như “thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng” (1Cr 13,1).
Tất cả điều này là sự thật chỉ khi thinh lặng đến từ lời, không phải là lời trống rỗng, khiếm diện nhưng tròn đầy và hiện diện, không phải từ thinh lặng của con người vì bối rối, xấu hổ, hoặc tội lỗi nhưng là thinh lặng thần linh, nơi đó tình yêu trụ lại vững chắc.
Ở đây, chúng ta có thể nhìn lướt qua mầu nhiệm vĩ đại, chúng ta tham dự vào đó ngang qua sự thinh lặng và Ngôi Lời, mầu nhiệm lời của chính Thiên Chúa. Đến từ thinh lặng vĩnh hằng, Thiên Chúa bày tỏ Ngôi Lời và qua Ngôi Lời sáng tạo thế giới và tái sáng tạo thế giới. Lúc khởi đầu Thiên Chúa đã gọi tên đất, biển và bầu trời. Ngài đã gọi tên mặt trời, mặt trăng và tinh tú. Thiên Chúa đã gọi tên cây cối, chim, cá, thú vật hoang dã và thú nuôi. Cuối cùng Ngài đã gọi tên người nam và người nữ. Rồi khi thời gian viên mãn, Ngôi Lời của Chúa, qua Ngài tất cả được tạo dựng, trở nên xác phàm và Ngài ban sức mạnh cho tất cả những ai tin được trở nên con cái Thiên Chúa. Trong tất cả điều này, Ngôi Lời Thiên Chúa không đập tan sự thinh lặng của Chúa, nhưng đúng hơn bày tỏ thinh lặng phong phú vô hạn của Ngài.
Các đan sĩ, nhờ vào sa mạc Ai cập đã khát khao tham dự vào thinh lặng thiêng liêng. Nhờ nói về thinh lặng này cho nhu cầu của tha nhân, họ đã tìm kiếm để thông dự vào quyền năng sáng tạo và tái sáng tạo của Ngôi Lời Thiên Chúa.
Lời nói chỉ có thể kiến tạo hiệp thông và sự sống mới, khi chúng là hiện thân của thinh lặng, từ thinh lặng lời nói phát sinh. Tuy nhiên, khi chúng ta giữ liên hệ với nhau nhờ lời nói, và dùng lời nói biện hộ cho chính mình hoặc xúc phạm kẻ khác, thì lời không còn nói về thinh lặng nữa. Chỉ khi lời gợi lên sự chữa lành và phục hồi cái tĩnh mịch của chính sự thinh lặng, thì cần ít lời: nhiều lời có thể nói mà không cần phải nói.
Vì vậy thinh lặng là mầu nhiệm của thế giới tương lai. Nó gìn giữ chúng ta trên đường hành hương và bảo vệ chúng ta khỏi bối rối trong các lo lắng ở thời đại này. Nó giữ ngọn lửa của Thánh Thần ngự trong chúng ta. Nó cho chúng ta nói lời thông dự vào quyền năng sáng tạo và tái sáng tạo của Lời Thiên Chúa.
Thừa tác vụ thinh lặng
Bây giờ vấn đề của chúng ta là thực hành thừa tác thinh lặng thế nào, để lời chúng ta có khả năng mô tả đầy đủ sự thinh lặng của Thiên Chúa. Đây là một vấn đề quan trọng, bởi vì chúng ta đã bị nhiễm quá nhiều lời thế gian, đến nỗi chúng ta cứ bám chặt vào ý nghĩ sai lạc, rằng lời nói của chúng ta quan trọng hơn thinh lặng của chúng ta. Bởi vậy, đòi hỏi một kỷ luật nghiêm khắc để khiến cho thừa tác vụ của mỗi người dẫn đưa tha nhân vào thinh lặng của Chúa. Đó là nhiệm vụ Chúa Giêsu ban cho chúng ta. Toàn bộ sứ vụ của Chúa Giêsu là quên đi chính mình để hướng đến Chúa Cha, Đấng đã sai Người. Chúa Giêsu nói với các môn đệ Ngài: “Lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói; nhưng là Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình” (Ga 14,10). Chúa Giêsu, Lời của Thiên Chúa trở nên xác phàm, đã không muốn quy về chính Ngài nhưng bày tỏ con đường đến với Chúa Cha: “Thầy từ Chúa Cha mà đến và Thầy đã đến thế gian. Nay Thầy lại bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha (Ga 16,28). Thầy đi dọn chỗ cho anh em ... để Thầy ở đâu anh em cũng ở đó” (Ga 14, 2-3). Để trở nên thừa tác vụ Danh Chúa Giêsu, thừa tác vụ của chúng ta cũng phải vượt qua những lời của chúng ta để đạt đến mầu nhiệm khôn tả xiết của Thiên Chúa.
Một trong những vấn đề chính yếu của chúng ta là ở lối sống thích tán gẫu, thinh lặng trở thành thứ rất sợ hãi. Đối với hầu hết dân chúng, thinh lặng tạo nên cảm giác bồn chồn và căng thẳng. Nhiều người trải qua thinh lặng không trọn vẹn và phong phú nhưng vô nghĩa và rỗng tuếch. Đối với họ, thinh lặng như là một khe vực thẳm có thể nuốt chửng họ. Khi một thừa tác viên nói trong phụng sự, “chúng ta hãy thinh lặng trong giây lát”, người ta bắt đầu bồn chồn và lo lắng, một số người nghĩ: “khi nào chuyện này sẽ qua?” Thinh lặng bắt buộc thường gây nên thù nghịch và phẫn uất. Nhiều thừa tác viên đã thử nghiệm thinh lặng trong phụng vụ, họ nhanh chóng thấy rằng thinh lặng có thể thành hắc ám hơn là thánh thiêng và nhanh chóng ra dấu hiệu nói rằng: “xin vui lòng nói tiếp đi”. Người ta khá hiểu rằng hầu hết các hình thức thừa tác vụ tránh sự thinh lặng để khỏi sinh ra sự bối rối.
Tuy nhiên, mục tiêu của mọi thừa tác vụ không phải là thể hiện rằng Thiên Chúa không phải là một Thiên Chúa của sợ hãi mà là Thiên Chúa của tình yêu sao? Đây không là một cuộc biến đổi êm ái và cẩn thận được thực hiện, từ thinh lặng rỗng tuếch sang thinh lặng đầy tràn, từ thinh lặng lo âu sang thinh lặng an bình, và từ thinh lặng bồn chồn sang thinh lặng yên tĩnh để trong thinh lặng biến đổi này, một cuộc gặp gỡ thực sự với Chúa Cha yêu thương có thể được biểu lộ hay sao? Lời của chúng ta phải có một sức mạnh lớn lao, thì nó có thể giúp người ta thành bạn bè với thinh lặng! Tôi sẽ mô tả vài phương thế cụ thể, hiện thực về điều này.
Thinh lặng và thuyết giảng
Thật là tốt, khi bài giảng của chúng ta hấp dẫn hoặc cảm động và đôi khi được cả hai. Nó kích thích lý trí và tâm hồn, và như thế dẫn đến một ý tưởng mới mẻ sâu sắc hoặc một cảm nghĩ mới mẻ. Điều này vừa đáng giá vừa cần thiết. Tuy nhiên, có một chọn lựa khác, một chọn lựa rất phù hợp, khi chúng ta làm việc với những nhóm nhỏ. Có một cách rao giảng, trong đó lời Kinh Thánh được lập lại cách nhẹ nhàng và đều đặng, thỉnh thoảng có một suy niệm ngắn, để cho lời này tạo ra một khoảng không gian nội tâm, mà chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa. Nếu đúng là lời Kinh Thánh dẫn chúng ta vào thinh lặng của Chúa, thì chúng ta phải cẩn thận dùng lời đó không đơn giản chỉ là một lời hấp dẫn hoặc cảm động, nhưng là một lời tạo nên những ranh giới bên trong, mà chúng ta có thể lắng nghe sự hiện diện yêu thương, ân cần và dịu dàng của Chúa.
Phần lớn giáo dân lắng nghe bài giảng mắt họ nhìn thẳng vào người thuyết giảng và đúng thế, bởi vì họ hướng chú ý đến lời đang được nói. Nhưng trong cách thế như vậy, lời được phát ra dần dần chuyển chú ý từ con mắt đến lòng người nghe và lời khám phá ở đó một sự thinh lặng nội tâm, lời ở lại đó an toàn.
Những lời đơn giản “Chúa là Mục Tử tôi”, có thể được nói nhẹ nhàng và bền bỉ bằng một cách thế như vậy, lời ấy sẽ trở nên như bờ dậu chung quanh vườn, trong đó người ta cảm nhận được sự săn sóc mục tử của Chúa. Những lời này, lúc đầu không có gì khác hơn một phép ẩn dụ thú vị, chuyển từ lý trí xuống trái tim. Ở đấy, lời nói cung cấp bối cảnh, một sự biến đổi nội tâm diễn ra, nhờ Thiên Chúa, Đấng vượt quá mọi lời nói và tư tưởng nhân loại. Như thế, lời “Chúa là mục tử tôi” dẫn đưa đến đồng cỏ thinh lặng, để chúng ta ở lại trong sự hiện diện của Ngài, người thuyết giảng nhân danh Ngài rao giảng. Sự trung gian của thuyết giảng là một cách thực hành thừa tác vụ thinh lặng.
Thinh lặng và tư vấn
Nhiều người hiểu tư vấn là cách để người ta nghe nhau và hướng dẫn để người nào đó tự hiểu mình rõ hơn và có sự độc lập tình cảm tốt hơn. Nhưng nó cũng diễn tả một mối tương quan giữa mục tử và người được tư vấn, một phương thế để cùng nhau đi vào sự thinh lặng dễ thương của Chúa và ở đó đợi chờ Lời chữa lành. Chúa Thánh Thần được gọi là Đấng An Ủi thiêng liêng. Ngài hiện diện năng động trong đời sống của những ai muốn biết ý Chúa. Do đó, những người tư vấn nên xem đó như là bổn phận đầu tiên trong việc giúp giáo dân của họ ý thức về những tác động của Đấng An Ủi thiêng liêng, và khuyến khích họ đi theo những tác động này mà không sợ sệt. Trong viễn tượng này, tư vấn mục vụ là cố gắng dẫn đưa những giáo dân lo sợ vào sự thinh lặng của Chúa, và giúp họ cảm thấy quen thuộc với điều đó, tin tưởng rằng họ sẽ từng bước khám phá ra sự hiện diện chữa lành của Chúa.
Điều này gợi lên rằng, người tư vấn cần phải rất nhạy bén với lời Kinh Thánh, là lời phát sinh từ thinh lặng của Chúa và trực tiếp hướng đến từng người, trong những hoàn cảnh đặc biệt. Khi người tư vấn nói lời Kinh Thánh ở một thời khắc đặc biệt, lúc đó người giáo dân có khả năng nghe, và như vậy nó có thể đạp đổ bức tường khổng lồ của sợ hãi và mở ra những chân trời mới không ngờ được. Như thế, lời nói đem đến thinh lặng thánh và trở lại với thinh lặng thánh.
Thinh lặng và tổ chức
Cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của thinh lặng để thừa tác viên tổ chức đời sống của họ và của tha nhân. Trong một xã hội mà mọi người xem giải trí, thư giãn là một mối bận tâm quan trọng, các thừa tác viên cũng bị cám dỗ xếp vào hàng ngũ của những người xem đó như bổn phận hàng đầu, khiến người ta bận rộn. Dễ dàng để nhận ra một người trẻ hoặc già, cần tránh xa các đường phố hoặc được tiếp tục đi trên phố. Và các thừa tác viên thường thấy chính họ ở trong cuộc cạnh tranh khốc liệt với người ta và các tổ chức, cung cấp những thứ kích động làm việc nhiều hơn họ thật sự cần.
Nhưng bổn phận của chúng ta thì trái ngược với thờ ơ. Bổn phận của chúng ta là giúp người ta tập trung vào thực tế, mà thường là vấn đề liên quan đến sự hiện diện năng động của Chúa, còn chưa được sáng tỏ trong đời sống của họ. Tuy nhiên, vấn đề là phải hướng dẫn mọi người trong giáo xứ tổ chức sinh hoạt, không phải là để tránh cho họ sự bận rộn, nhưng là để làm sao họ không phải quá bận rộn đến nỗi không còn nghe được tiếng Chúa nói trong thinh lặng.
Vì thế, mời gọi người ta qui tụ lại, nghĩa là mời gọi họ tránh xa lời dài dòng lặt vặt, xao lãng của thế giới tối tăm để đi vào thinh lặng, họ có thể khám phá chính mình, tha nhân và Thiên Chúa. Như thế, tổ chức có thể được xem là tạo nên một không gian giúp đi đến hiệp thông và giúp phát triển cộng đoàn .
Các thí dụ về thinh lặng trong thuyết giảng, tư vấn và tổ chức được dùng để minh hoạ phương thế thinh lặng, nhằm xác định hình thức áp dụng cho thừa tác vụ của chúng ta. Nhưng chúng ta đừng quá theo nghĩa đen về thinh lặng. Sau hết, thinh lặng của tâm hồn quan trọng hơn rất nhiều thinh lặng nơi miệng lưỡi. Linh phụ Poemen nói: “Một người tưởng như giữ thinh lặng, nhưng nếu lòng họ đang kết án tha nhân, thì họ vẫn đang lẩm bẩm không ngừng. Lại có kẻ khác nói từ sáng đến tối, nhưng họ lại thực sự thinh lặng” 9.
Thinh lặng trước hết là một phẩm chất của con tim dẫn đến bác ái không ngừng gia tăng. Vào một ngày kia, có một người khách nói với vị ẩn sĩ, “xin lỗi vì làm ngài lỗi luật của ngài”. Nhưng ẩn sĩ trả lời, “Luật của tôi là thực hành nhân đức hiếu khách, đối với ai đến thăm và tôi chúc lành cho họ ra về trong bình an” 10.
Bác ái chứ không phải thinh lặng là mục tiêu của đời sống thiêng liêng và của thừa tác vụ. Về điều này, tất cả các tổ phụ sa mạc đều nhất trí.
Kết luận
Đây là những suy nghĩ kỹ càng nhất của tôi về thinh lặng. Trong thế giới tán gẫu của chúng ta, lời đã mất đi sức mạnh để truyền thông, thinh lặng giúp chúng ta giữ tâm trí và linh hồn thả neo vào thế giới tương lai và từ đó, cho chúng ta nói lời sáng tạo và tái sáng tạo cho thế giới hiện tại. Vì vậy, thinh lặng có thể cho chúng ta sự hướng dẫn cụ thể trong thực hành thừa tác vụ của chúng ta.
Không một chút nghi ngờ các tổ phụ sa mạc nghĩ rằng không nói là một thực hành rất quan trọng. Thường nói quá nhiều lời là dư thừa, không thật và hời hợt. Đây là một cách rèn luyện, là tự hỏi mình trong tình huống: tôi nói thì tốt hơn hay thinh lặng tốt hơn cho tha nhân. Ngoài việc nhìn nhận điều đó, còn có một sứ điệp quan trọng hơn bắt nguồn từ sa mạc, thinh lặng trên hết là phẩm chất của một con tim, có thể tồn tại trong chúng ta ngay cả khi chúng ta đối thoại với kẻ khác. Chúng ta có một tu phòng di động luôn đem theo mình, từ đó chúng ta nói chuyện với những ai cần rồi lại trở về đó, sau khi lời chúng ta sinh hoa kết trái.
Khi ở trong tu phòng di động này, chúng ta thấy mình đắm chìm trong thinh lặng thánh. Vấn đề cốt lõi liên quan đến thừa tác vụ thinh lặng của chúng ta, không phải nói nhiều hay ít, mà là lời chúng ta có hướng đến thinh lặng quan phòng của chính Thiên Chúa không. Tất cả chúng ta được mời gọi đến với thinh lặng này: lời nói là công cụ của thế giới này, nhưng thinh lặng là mầu nhiệm của thế giới tương lai.
Cầu nguyện
Dẫn nhập
Khi Arsenius cầu xin lần thứ hai, “Lạy Chúa, xin dẫn con vào đường cứu độ”, có tiếng trả lời ngài không chỉ là, “hãy thinh lặng” nhưng còn “cầu nguyện luôn”. Cầu nguyện luôn, đó là mục đích chính yếu của đời sống sa mạc. Cô tịch và thinh lặng không bao giờ tách khỏi tiếng mời gọi cầu nguyện không ngừng. Nếu cô tịch chủ yếu là tránh khỏi việc bận rộn, thinh lặng chủ yếu là tránh khỏi môi trường ồn ào, thì chúng có thể dễ dàng trở thành mô thức trọng tâm nhất của khổ tu. Nhưng cô tịch và thinh lặng nhằm để cầu nguyện. Các tổ phụ sa mạc đã không nghĩ cô tịch là ở một mình, nhưng là ở một mình với Chúa. Họ không nghĩ thinh lặng là không nói nhưng là để lắng nghe tiếng Chúa. Cô tịch và thinh lặng là khung cảnh để cầu nguyện được thực hiện.
Các từ ngữ “cầu nguyện luôn” dịch theo nghĩa đen là “đến để ở lại”. Tiếng Hy lạp “ở lại” là hesychia, và hesychasm là hạn từ ám chỉ đến linh đạo sa mạc. Một hesychast là một người nam hoặc nữ tìm cô tịch và thinh lặng là những phương thế để không ngừng cầu nguyện. Cầu nguyện của hesychast là lời cầu nguyện ở lại. Tuy nhiên, sự ở lại này chưa phải cố gắng vì không có hiện diện của xung đột hoặc đau khổ. Đó là một sự ở lại trong Chúa với một cuộc chiến đấu thường ngày rất mạnh mẽ. Thậm chí linh phụ Antôn nói với một đan sĩ đồng tu rằng “công việc quan trọng của một người ... là chờ đợi những cám dỗ, đến hơi thở cuối cùng của người đó”.
Hesychia nghĩa là ở lại, đến từ cầu nguyện liên lỉ, cần phải được tìm thấy ở mọi giá, ngay cả khi da thịt người ta ngứa ngáy, thế giới quyến rũ hoặc ma quỷ om sòm. Linh mẫu Theodora, một trong những tổ mẫu sa mạc nhấn mạnh điều này rất rõ: “... bạn nên nhận ra rằng, vừa khi bạn muốn sống trong bình an, lúc đó quỷ kéo đến và đè nặng lên linh hồn bạn bằng cảm giác buồn chán [accidie], thiếu can đảm, và tư tưởng xấu. Chúng cũng tấn công thân xác bạn bằng bệnh tật, suy nhược, bủn rủn đầu gối và hết các chi thể. Chúng làm tiêu tan hết sức lực của linh hồn và thể xác, khiến người ta nghĩ rằng họ đau yếu và không còn cầu nguyện được nữa. Nhưng nếu chúng ta cảnh giác, tất cả những cám dỗ này sẽ đi khỏi” 1.
Mặc dù, đầu gối rã rời không phải là điều phiền muộn chính yếu của chúng ta, nhưng các thừa tác viên không thiếu những lời bào chữa, và thường là rất tinh vi khiến chúng ta bỏ cầu nguyện. Tuy nhiên, đối với chúng ta, việc cầu nguyện quan trọng như các tổ phụ sa mạc ngày xưa. Vì thế, tôi sẽ đào sâu vai trò của cầu nguyện trong cuộc sống thường ngày. Tôi thiết tưởng trước hết, điều chúng tôi quan tâm đến là xem cầu nguyện chủ yếu là một hoạt động của tâm trí. Rồi tôi trình bày cầu nguyện hesychasts, là cầu nguyện của tâm hồn. Cuối cùng, tôi muốn trình bày phương thế cầu nguyện của tâm hồn đó đòi hỏi một kỷ luật, để biến cầu nguyện thành trung tâm thừa tác vụ của chúng ta.
Cầu nguyện của tâm trí
Hầu hết các thừa tác viên cho rằng cầu nguyện là quan trọng. Thậm chí họ xem cầu nguyện là chiều kích quan trọng nhất của cuộc đời họ. Nhưng sự thực là, phần lớn thừa tác viên cầu nguyện rất ít hoặc không cầu nguyện tí nào. Họ nhận thức rằng không nên lơ là việc cầu nguyện, nên dùng thời giờ để cầu nguyện và cầu nguyện phải là một ưu tiên trong đời họ. Nhưng tất cả các chữ “nên” này không có sức mạnh giúp họ vượt qua cái rào cản to lớn của chủ nghĩa hoạt động. Luôn luôn có nhiều hơn một cuộc điện thoại, hơn một bức thư, hơn một cuộc thăm viếng, hơn một cuộc gặp gỡ, hơn một quyển sách và hơn một bữa tiệc. Những thứ này tập trung lại làm thành một khối lớn, đầy dãy những hoạt động mà người ta không qua nổi. Amma Theodora đã mô tả sinh động, tỉ mỉ tương phản rõ ràng giữa người có thực hành cầu nguyện và người thiếu thực hành là: một người có sự nâng đỡ rất lớn, còn người kia dễ dàng tin vào những mưu chước của ma quỷ.
Một trong những mưu chước của ma quỷ là khiến chúng ta nghĩ cầu nguyện chủ yếu là hoạt động của lý trí, đòi hỏi trên hết không ngoài khả năng lý trí của chúng ta. Cách nghĩ này làm nảy sinh kiểu cầu nguyện nói với Chúa hoặc nghĩ về Chúa.
Đối với nhiều người trong chúng ta cầu nguyện không có nghĩa nào khác hơn là nói với Chúa. Và vì vậy, nó thường được xem là việc làm một chiều, cầu nguyện đơn giản là nói với Chúa. Ý nghĩ này đủ tạo nên những thất bại lớn. Nếu tôi đưa ra một vấn đề, tôi hy vọng có một giải pháp; nếu tôi đặt một câu hỏi, tôi hy vọng có câu trả lời; nếu tôi xin chỉ dẫn, tôi hy vọng có sự giúp đỡ. Đến một lúc, việc đó tăng thêm tôi thấy mình đang nói vào bóng đêm, và không có gì xa lạ, tôi sẽ bắt đầu nghi ngờ rằng cuộc đối thoại của tôi với Chúa thực ra là cuộc độc thoại. Rồi tôi bắt đầu tự hỏi: tôi đang thực sự nói với ai, Thiên Chúa hay chính mình?
Đôi khi thiếu câu trả lời khiến chúng ta tự hỏi, phải chăng tôi đã cầu nguyện không đúng cách, mà hầu hết chúng ta cảm thấy bị mất mát, đánh lừa và nhanh chóng ngừng “toàn bộ công việc ngu xuẩn này”. Điều đó cũng khá dễ hiểu, vì thà chúng ta có cuộc nói chuyện với những con người cụ thể, họ cần lời nói và một lời đáp trả, như thế còn có lý hơn là nói với một Thiên Chúa giống như một chuyên viên “chơi trò trốn - tìm.”
Nhưng cũng có một quan điểm khác dẫn đến thất bại tương tự. Đó là quan điểm hạn chế ý nghĩa của cầu nguyện là: nghĩ về Thiên Chúa. Chúng ta gọi nó là cầu nguyện hoặc suy tư chỉ có một chút khác biệt. Cái cần cho niềm tin nền tảng này là nghĩ về tư tưởng của Chúa và mầu nhiệm của Ngài. Vì thế, cầu nguyện đòi hỏi lý trí làm việc vất vả và khá mệt mỏi, nhất là nếu trầm ngâm suy nghĩ không phải là điểm mạnh của chúng ta. Vì chúng ta có nhiều thứ khác đòi hỏi đầu óc phải suy nghĩ, cho nên suy nghĩ về Chúa càng trở nên một gánh nặng hơn. Điều đó rất đúng vì suy nghĩ về Chúa không phải là một sự kiện tự phát, trong khi đó suy nghĩ về những công việc bắt buộc xảy đến khá tự nhiên.
Suy nghĩ về Chúa biến Chúa thành một đề tài cần được nghiên cứu và phân tích cẩn thận. Như thế, cầu nguyện thành công là cầu nguyện dẫn đến những khám phá mới của lý trí về Chúa. Cũng giống một nhà tâm lý nghiên cứu một trường hợp và cố gắng để hiểu biết sâu xa, nhờ việc tìm ra những điểm nối kết với nhau trong hồ sơ có sẵn, cũng vậy, người cầu nguyện giỏi phải hiểu Thiên Chúa hơn, nhờ suy nghĩ sâu xa về tất cả những gì được biết về Ngài.
Trong khi nghĩ về Chúa cũng như nói với Chúa, mức độ thất bại của chúng ta khá thấp và không có nhiều tác động ngăn chặn việc cầu nguyện chung với nhau. Đọc một quyển sách hoặc viết một bài báo, hoặc một bài giảng thì có nhiều thích thú hơn để tâm trí vẩn vơ vào chốn vô danh.
Cả hai quan điểm cầu nguyện này là sản phẩn của một nền văn hoá, trong đó người ta đặt năng suất lên hàng đầu nhờ lý trí làm chủ thế giới. Tư tưởng thống trị là mọi thứ đều có thể hiểu được và cái gì hiểu được thì có thể kiểm soát được. Thiên Chúa cũng vậy, là một vấn đề có giải pháp và nhờ tâm trí cố gắng hết sức chúng ta sẽ tìm thấy. Vì thế, chẳng lạ gì khi thấy cái áo học thuật, là cái áo chính thức của thừa tác viên, và một trong những tiêu chuẩn chính yếu cho việc điều hành ở bục giảng, là một người phải có trình độ đại học.
Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là lý trí không có một vị trí trong đời sống cầu nguyện, hoặc những suy tư thần học và cầu nguyện loại trừ lẫn nhau. Nhưng chúng ta không nên đánh giá thấp chủ trương đề cao lý trí ở các nhà thờ Bắc Mỹ. Nếu việc cầu nguyện công của các thừa tác viên trong hay ngoài nhà thờ không phản ảnh bất cứ đời sống cầu nguyện nào của họ, thì chắc chắn Thiên Chúa cũng đang bận rộn tham gia những chuyên đề nghiên cứu! Làm sao chúng ta có thể chờ đợi bất cứ ai tìm được sự nuôi dưỡng, an ủi và khích lệ thật sự từ một đời sống cầu nguyện, mà tâm trí phải cố gắng vượt khỏi giới hạn của nó và thêm vào đó là những hoạt động kiệt sức, vì nhiều chương trình đã lên lịch?
Trong suốt thập niên vừa qua, nhiều người đã khám phá ra giới hạn của trí năng. Càng ngày người ta càng nhận ra rằng, điều mà người ta cần thì lớn hơn những bài giảng hấp dẫn và những lời cầu nguyện thú vị. Người ta tự hỏi làm sao để họ có cảm nghiệm thực sự Thiên Chúa. Phong trào đặc sủng là một hưởng ứng rõ ràng cho việc tìm kiếm mới đối với cầu nguyện. Tính phổ biến của Thiền và các thử nghiệm với những phương pháp kỹ thuật trong các nhà thờ cũng cho thấy một sự khát khao cảm nghiệm Chúa. Bất thình lình, chúng tôi thấy mình bị bao quanh bởi những người đang nói, “xin dạy chúng tôi cầu nguyện”. Và lúc đó, chúng tôi ý thức rằng người ta đang nhờ chúng tôi chỉ cho họ con đường đi ngang qua vùng mà chính chúng tôi không biết. Sự khủng hoảng đời sống cầu nguyện của chúng ta, là tâm trí được lấp đầy những ý tưởng của Chúa, trong khi đó tâm hồn chúng ta vẫn còn xa cách Ngài. Cầu nguyện thật sự đến từ tâm hồn. Về lời cầu nguyện của tâm hồn này, các tổ phụ sa mạc dạy chúng ta.
Cầu nguyện của tâm hồn
Cầu nguyện hesychastic là sự cầu nguyện của tâm hồn, dẫn chúng ta đến điểm ngừng lại, nơi đó linh hồn có thể ở lại với Chúa. Đối với chúng ta, học biết cầu nguyện với và qua tâm hồn có tầm quan trọng đặc biệt, phải được lý trí định hướng rõ ràng. Các tổ phụ sa mạc có thể chỉ cho chúng ta con đường. Dù họ không để lại cho chúng ta bất cứ học thuyết nào về cầu nguyện, nhưng họ để lại những câu chuyện cụ thể và các lời khuyên, cống hiến những viên đá, nhờ đó các tác giả về đàng thiêng liêng Chính Thống sau này xây dựng nên linh đạo rất ấn tượng. Các tác giả thiêng liêng ở Mount of Sinai, Mount Athos và startsi của Nga thế kỷ IX tất cả đã cắm rễ sâu vào truyền thống sa mạc. Chúng ta cũng tìm thấy công thức cầu nguyện của tâm hồn tuyệt hảo nhất, trong các bài viết của nhà huyền bí Theophan the Recluse: “Cầu nguyện là hướng lý trí vào tâm hồn và ở đó hiện diện trước nhan Chúa, Ngài luôn hiện diện, thấu suốt mọi sự trong bạn”2. Qua các thế kỷ, quan điểm về cầu nguyện này là chính yếu trong hesychasm. Cầu nguyện là thường trực trong sự hiện diện của Chúa với sự tỉnh thức của tâm hồn; đó là nơi trọng tâm của con người, nơi đó không còn sự chia cách hoặc phân biệt, và nơi đó tất cả chúng ta chỉ là một. Nơi đó Thánh Thần Chúa lưu lại và nơi đó, một cuộc gặp gỡ quan trọng diễn ra. Nơi đó tâm hồn nói chuyện với tâm hồn, bởi vì nơi đó, chúng ta hiện diện trước nhan Chúa, Đấng thấu suốt và ở trong chúng ta.
Ở đây, chúng ta phải chấp nhận rằng lời tâm hồn được dùng với ý nghĩa Kinh Thánh đầy đủ. Trong môi trường chúng ta, lời tâm hồn trở thành lời êm ái, tương xứng với một vị trí của đời sống tình cảm. Các thành ngữ “trái tim tan nát” và “thành tâm” cho thấy chúng ta thường nghĩ về trái tim như là nơi ấm áp, nơi cảm xúc ngự trị, trái ngược với lý trí lạnh lùng, nơi mà những tư tưởng tìm chỗ nương thân. Nhưng lời tâm hồn trong truyền thống Kitô hữu – Do thái tương ứng với nguồn mạch của tất cả năng lực thể lý, tình cảm, lý trí, ý chí và đạo đức.
Từ trái tim phát xuất sức đẩy không hiểu thấu được, giống như ý thức tình cảm, tâm trạng và ước muốn. Con tim cũng có lý lẽ riêng của nó, là trung tâm của nhận thức và hiểu biết. Cuối cùng, trái tim là nơi cư ngụ của ý chí: nó thiết lập những kế hoạch và dẫn đến những quyết định đúng. Như vậy, trái tim là cơ quan trung tâm và thống nhất của đời sống cá nhân. Trái tim chúng ta quyết định cá tính, và vì vậy nó không chỉ là nơi Chúa ngự, nhưng cũng là nơi Satan nhằm tấn công dữ dội nhất. Chính trái tim này là nơi cầu nguyện. Cầu nguyện của tâm hồn là một lời cầu nguyện trực tiếp với Thiên Chúa đến từ trung tâm của con người, cho nên ảnh hưởng toàn bộ nhân tính.
Một trong những tổ phụ sa mạc, Macarius Cả đã nói: “nhiệm vụ chủ yếu của vận động viên điền kinh [đan sĩ] là phải đi vào trong trái tim mình” 3. Điều này không có nghĩa là đan sĩ phải cố gắng lấp đầy lời cầu nguyện của mình bằng cảm xúc, nhưng người đó phải cố gắng để lời cầu nguyện tu sửa toàn bộ con người mình. Sự thấu hiểu sâu xa nhất của các tổ phụ sa mạc, đó là đi vào con tim là đi vào trong Nước Thiên Chúa. Nói cách khác, con đường đến với Chúa ngang qua con tim. Isaac the Syrian viết: “Cố gắng đi vào kho tàng châu báu ... ở trong bạn, rồi bạn sẽ khám phá ra kho tàng châu báu trên trời. Vì hai kho tàng chỉ là một và như nhau. Nếu bạn thành công đi vào một, bạn sẽ thấy cả hai. Chiếc thang lên Nước Trời đó được giấu kín trong bạn, trong tâm hồn bạn. Nếu bạn tẩy sạch tâm hồn bạn hết tội lỗi, bạn sẽ thấy ở đó những thanh ngang của cái thang mà bạn có thể leo lên” 4. Và John Carpathios nói: “phải dùng những cố gắng và chiến đấu cam go trong cầu nguyện, để đến được trạng thái tâm trí thoát khỏi tất cả những xáo trộn; đó là một thiên đàng trong tâm hồn, một nơi chốn như vị tông đồ bảo đảm cho chúng ta, “nơi Đức Kitô ngự trong chúng ta” (2Cr 13,5) 5.
Các tổ phụ sa mạc trong các bài giảng chỉ cho chúng ta hướng đến một cái nhìn tổng thể về cầu nguyện. Họ kéo chúng ta ra khỏi những thực hành mang tính lý trí hoá, để Thiên Chúa trở nên một trong những vấn đề chúng ta phải nói tới. Các ngài chỉ cho chúng ta thấy rằng cầu nguyện thật đi xuyên qua phần cốt tuỷ của linh hồn và không để bất cứ điều gì có thể chạm đến được. Cầu nguyện của tâm hồn là lời cầu nguyện không buộc chúng ta giới hạn mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa đối với những lời nói hấp dẫn và cảm xúc đạo đức.
Do tự bản tính của lời cầu nguyện như thế biến đổi toàn bộ con người nên giống Chúa Kitô, bởi vì nó mở con mắt tâm hồn đến với sự thật của chính mình, cũng như đến với sự thật của Thiên Chúa. Từ tận đáy lòng, chúng ta phải coi mình như những tội nhân được lòng thương xót Chúa ấp ủ. Chính nhờ thị kiến này khiến chúng ta kêu lên: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Cầu nguyện của tâm hồn đòi hỏi chúng ta phơi bày mọi sự trước mặt Thiên Chúa và dâng hiến chính mình vô điều kiện cho lòng thương xót Chúa.
Vì vậy cầu nguyện của tâm hồn là lời cầu nguyện của sự thật. Nó lột mặt nạ nhiều ảo giác về chính chúng ta và về Thiên Chúa, dẫn chúng ta vào mối tương quan thật của một tội nhân với Thiên Chúa thương xót. Sự thật này ban cho chúng ta sự “ở lại” của Hesychast. Tuỳ theo mức độ sự thật bám rễ trong lòng chúng ta, mà chúng ta ít bị phân tâm bởi những tư tưởng trần tục và tập trung nhiều hơn vào mục tiêu duy nhất là Thiên Chúa của cả tâm hồn chúng ta và thế giới. Vì vậy lời của Chúa Giêsu, “phúc thay ai có tâm hồn trong sạch: họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5, 8), sẽ trở thành hiện thực trong lời cầu nguyện của chúng ta. Cám dỗ và chiến đấu sẽ tồn tại đến hết cuộc đời, nhưng với tâm hồn trong sạch, chúng ta sẽ bình yên ngay giữa cuộc sống biến loạn.
Điều này đã khơi lên một câu hỏi: làm sao có thể thực hiện lời cầu nguyện của tâm hồn trong một thừa tác vụ rất bất yên? Đối với câu hỏi nêu ra này bây giờ chúng ta phải thay đổi hướng chú ý của chúng ta.
Cầu nguyện và thừa tác vụ
Chúng ta thực hiện cầu nguyện của tâm hồn thế nào, trong khi mình không phải là đan sĩ và không sống trong sa mạc? Cầu nguyện tâm hồn tác động thế nào đối với thừa tác vụ của chúng ta?
Câu trả lời cho những vấn đề này đặt trong công thức của một kỷ luật rõ ràng, một luật cầu nguyện. Có ba đặc tính của cầu nguyện của tâm hồn có thể giúp chúng ta thành lập kỷ luật này:
- Cầu nguyện của tâm hồn được nuôi dưỡng nhờ những lời cầu nguyện ngắn, đơn giản.
- Cầu nguyện của tâm hồn liên lỉ.
- Cầu nguyện của tâm hồn bao quát tất cả.
Nuôi dưỡng bằng những lời nguyện ngắn
Trong bối cảnh văn hoá thích nói dài của chúng ta, rất có ý nghĩa để nghe các tổ phụ sa mạc đề phòng chúng ta đừng ham nói quá nhiều lời: “Người ta hỏi linh phụ Macarius ‘người ta nên cầu nguyện thế nào?’, vị trưởng thượng trả lời, ‘hoàn toàn không cần làm những diễn văn dài dòng; chỉ cần giơ một tay lên và nói, “Lạy Chúa, như Ngài muốn, như Ngài biết, xin thương xót con”. Và nếu cuộc xung đột tăng lên dữ dội hãy nói: “Lạy Chúa, xin giúp con”. ‘Ngài biết rất rõ con cần gì và Ngài tỏ cho con biết lòng thương xót của Ngài’ ” 6.
John Climacus lại còn nói rõ ràng hơn: “Khi bạn cầu nguyện đừng cố gắng thể hiện bằng những lời bóng bẩy, năng dùng những cụm từ lặp đi lặp lại, đơn giản của một đứa bé mà Cha trên trời ban ơn hầu như không thể cưỡng lại được. Đừng cố gắng dài dòng, thì tâm trí bạn ít bị phân tán lòng mộ mến, vì phải tìm kiếm lời lẽ. Chỉ cần một lời trên môi của người thu thuế là đủ để nhận được lòng thương xót Chúa; một lời thỉnh cầu khiêm nhường thực hiện với lòng tin cũng đủ để cứu được tên trộm lành. Tính dài dòng trong cầu nguyện thường dẫn tâm trí chúng ta đến tưởng tượng và phân tán; những lời đơn giản rất tự nhiên giúp tập trung tâm trí. Khi bạn cảm thấy thoả lòng hoặc hối hận trong một lời cầu nguyện nào đó của bạn, hãy ngừng lại ở điểm đó” 7.
Đây là một gợi ý rất hữu ích cho chúng ta, người ta phụ thuộc quá nhiều vào khả năng ăn nói. Một lời đơn giản lặp đi lặp lại nhẹ nhàng có thể giúp chúng ta đi từ lý trí xuống tâm hồn. Lời lặp đi lặp lại không có chi là ma thuật. Nó không có nghĩa như đọc một lời thần chú về Chúa hoặc ép buộc Ngài nghe chúng ta. Trái lại, một lời hoặc câu lặp lại thường xuyên có thể giúp chúng ta tập trung, di chuyển vào trung tâm, để tạo ra một sự tĩnh lặng nội tâm và nhờ đó lắng nghe tiếng Chúa. Khi chúng ta cố gắng ngồi yên lặng và chờ đợi Chúa nói với chúng ta, chúng ta thấy mình bị tấn công bởi những suy nghĩ và tư tưởng xung đột không ngừng. Nhưng khi chúng dùng một câu rất đơn giản như là “Ôi lạy Chúa, xin đến phù trợ con”, hoặc là “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót con”, hoặc một lời tương tự “Lạy Chúa” hoặc “Lạy Chúa Giêsu”, những lời đó dễ dàng giúp chúng ta tránh khỏi nhiều chia trí để không bị lạc đường. Một lời cầu nguyện lặp đi lặp lại dễ dàng đơn giản như thế, có thể từng bước làm trống rỗng đời sống chật ních bên trong và tạo ra khoảng không gian yên tĩnh, để chúng ta ở lại với Chúa. Đó là một cái thang, để chúng ta đi vào tâm hồn và lên với Thiên Chúa. Việc chọn lựa một lời để đọc tuỳ thuộc vào nhu cầu và hoàn cảnh của mỗi lúc nhưng tốt nhất chúng ta nên dùng lời từ Kinh Thánh.
Cách cầu nguyện này đơn giản, khi chúng ta trung thành và thực hiện thường xuyên, thì từng bước dẫn chúng ta đến một kinh nghiệm ở lại và mở ra với sự hiện diện tích cực của Chúa. Hơn nữa, chúng ta có thể áp dụng lời cầu nguyện này vào những ngày rất bận rộn. Ví dụ, vào lúc sáng sớm, chúng ta dùng 20 phút ngồi trước sự hiện diện của Chúa, đọc lời này: “Lạy Chúa là Mục Tử của con”, rồi từng bước xây dựng một cái tổ nhỏ cho lời đó trong tâm hồn, và ở lại đó, cho đến hết ngày bận rộn. Thậm chí trong lúc chúng ta nói, học, làm vườn hoặc xây dựng, việc cầu nguyện vẫn diễn ra trong lòng chúng ta và gìn giữ chúng ta ý thức sự hướng dẫn của Chúa vẫn hiện diện. Kỷ luật không trực tiếp hướng đến một sự thấu biết sâu xa hơn, vào những gì mà Chúa được gọi là Mục Tử, nhưng hướng vào kinh nghiệm nội tâm việc chăm sóc của Chúa, bất cứ khi nào tôi nghĩ, nói hoặc làm.
Liên lỉ
Tính chất thứ hai của cầu nguyện tâm hồn là sự liên tục. Vấn đề là làm sao để thực hành lời thánh Phaolô “cầu nguyện không ngừng”, lời này đã từng có một vị trí trung tâm trong Hesychasm, từ thời các tổ phụ sa mạc cho tới nước Nga thế kỷ 9. Có rất nhiều thí dụ của vấn đề này liên quan đến từ cả hai tuyền thống Hesychastic.
Trong suốt thời kỳ các tổ phụ sa mạc, có một phái mộ đạo được gọi là Messilian. Họ có một phương thế cầu nguyện đề cao tinh thần thái quá và xem công việc chân tay là sự kết án cho một đan sĩ. Một số đan sĩ thuộc phái này đến gặp linh phụ Lucius, “linh phụ hỏi họ ‘anh em có làm việc chân tay không?’, họ trả lời ‘chúng tôi không hề đụng đến việc chân tay nào, mà như các tông đồ dạy ‘chúng tôi cầu nguyện không ngừng’. Linh phụ hỏi họ, ‘anh em có ăn uống không’ và họ trả lời có. Cho nên ngài nói với họ, ‘khi anh em đang ăn thì ai cầu nguyện cho anh em?’. Rồi ngài lại hỏi họ ‘anh em không ngủ sao, họ trả lời có’ và ngài nói với họ, ‘khi anh em ngủ thì ai cầu nguyện cho anh em?’. Họ không thể trả lời ngài bất cứ câu hỏi nào. Ngài nói với họ, ‘xin thứ lỗi cho tôi vì anh em đã không làm như điều anh em nói. Tôi sẽ cho anh em thấy việc lao động chân tay thế nào, trong khi tôi làm việc, tôi cầu nguyện không ngừng. Tôi ngồi với Chúa, ngâm cây sậy và bện dây thừng và tôi nói với Chúa, ‘lạy Chúa xin thương xót con; theo như sự thiện tuyệt hảo của Ngài và theo lòng thương xót vô hạn của Ngài, xin cứu con khỏi tội lỗi’. Rồi ngài hỏi họ ‘đó không phải là cầu nguyện sao?’, họ trả lời, ‘đúng là cầu nguyện’. Rồi ngài nói với họ, ‘bởi vậy, khi tôi đã dùng cả ngày để làm việc và cầu nguyện, kiếm được mười ba đồng, có khi nhiều hoặc ít hơn, tôi bỏ hai đồng ngoài cửa và số còn lại tôi trả tiền thức ăn. Người lấy hai đồng của tôi cầu nguyện cho tôi khi tôi ăn hoặc tôi ngủ; nên nhờ ơn Chúa, tôi hoàn tất huấn lệnh cầu nguyện không ngừng’” 8.
Câu chuyện này đem lại cho chúng ta một câu trả lời rất thực tế cho vấn đề, ‘làm sao cầu nguyện không ngừng, trong khi bận rộn với nhiều công việc khác?’. Câu trả lời liên quan đến tha nhân. Nhờ sự bác ái của tôi, người lân cận trở thành bạn của tôi trong cầu nguyện và thực hiện điều đó trong cầu nguyện liên lỉ.
Ở thế kỷ thứ 19, khi những vấn đề với phái Messalian không còn nữa, thì người ta đưa ra một lời giải đáp huyền bí hơn. Chúng ta tìm thấy điều đó trong câu chuyện nổi tiếng về người nông dân Nga được gọi là Con Đường của Người Hành Hương. Nó bắt đầu như sau: “Nhờ ân sủng Chúa, tôi là một kitô hữu, nhưng bởi các việc làm tôi là một tội nhân xấu xa ... Vào tuần thứ 24, sau lễ Ngũ Tuần, tôi đến nhà thờ đọckinh trong Giờ Phụng Vụ. Người ta đọc thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gởi tín hữu Thessalonica và trong khi nghe những lời khác nữa, tôi chú ý những lời này - “hãy cầu nguyện không ngừng” (1Tx 5,17). Đó là bản văn đã tác động trên tâm trí của tôi, hơn bất cứ bản văn nào khác và tôi bắt đầu nghĩ làm thế nào cầu nguyện không ngừng, bởi vì người ta phải lo lắng nhiều chuyện khác nữa để sinh sống” 9. Người nông dân đi từ nhà thờ này đến nhà thờ khác để lắng nghe các bài giảng, nhưng ông đã không tìm thấy lời đáp trả cho khao khát của ông. Cuối cùng, ông gặp một vị linh hướng thánh thiện nói với ông: “Việc cầu nguyện nội tâm không ngừng là một niềm khát khao trường kỳ của tinh thần nhân loại hướng lên Thiên Chúa. Để thực hiện lời khuyên này thành công, chúng ta phải cầu nguyện thường xuyên hơn với Chúa, Đấng dạy chúng ta cầu nguyện không ngừng. Hãy cầu nguyện nhiều hơn, cầu nguyện sốt sắng hơn. Đó chính là lời cầu nguyện mạc khải cho bạn biết làm cách nào có thể đạt được thành công liên tục; nhưng nó sẽ mất một số thời gian” 10. Rồi, vị linh hướng thánh thiện dạy cho người nông dân Kinh Nguyện của Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin thương xót con”. Trong cuộc hành trình như một người hành hương ngang qua nước Nga, người nông dân lặp lại kinh nguyện này cả ngàn lần trên môi. Thậm chí anh ta đã xem Kinh Nguyện của Chúa Giêsu là người bạn đồng hành thật sự của mình. Rồi một ngày nọ, anh có cảm tưởng lời kinh đã đi từ môi miệng đến tâm hồn nhờ việc làm. Ông ta nói: “Khi tôi bắt đầu đọc Lời Kinh, thì dường như trái tim tôi cùng nhịp đập với mỗi lời …Tôi không đọc Lời Kinh trên môi, tôi chỉ còn lắng nghe cẩn thận điều tâm hồn tôi đang nói” 11.
Ở đây, chúng ta học được cách khác để đến việc cầu nguyện không ngừng. Lời cầu nguyện tiếp tục diễn ra trong tôi ngay cả khi tôi nói chuyện với người khác hoặc đang chú ý vào cộng việc tay chân. Lời Kinh trở thành sự hiện diện năng động của Thánh Thần Chúa dẫn dắt tôi suốt cuộc đời.
Như vậy, nhờ bác ái và hoạt động của Lời Kinh của Chúa Giêsu trong lòng chúng ta, chúng ta nhận thấy cả ngày có thể trở thành một lời cầu nguyện liên tục. Tôi không có ý nói chúng ta nên bắt chước đan sĩ Lucius hoặc người hành hương Nga, nhưng tôi muốn nói rằng, trong thừa tác vụ bận rộn, chúng ta cũng nên quan tâm đến việc cầu nguyện không ngừng, để dù ăn, dù uống hay bất cứ làm việc gì chúng ta hãy làm vinh danh Chúa (x. 1Cr 10,31). Yêu mến và làm vinh danh Chúa không thể trở thành một ý tưởng, chúng ta nghĩ trong một lúc mà nó phải bắt đầu bài ngợi khen ở nội tâm, không ngừng được cất lên.
Tổng hợp
Chúng ta rất quan tâm đến tính chất thiết yếu của cầu nguyện tâm hồn. Khi chúng ta qua lý trí đi vào tâm hồn và ở đó trước sự hiện diện của Chúa, rồi mọi bận tâm lý trí trở thành lời cầu nguyện. Sức mạnh của cầu nguyện tâm hồn thì rõ ràng, vì qua cầu nguyện này tất cả những gì diễn ra trong tâm trí trở thành cầu nguyện.
Khi chúng ta nói với một ai đó, “tôi sẽ cầu nguyện cho bạn”, chúng ta đã đưa ra một lời cam kết rất quan trọng. Điều đáng buồn là chúng ta thường không giữ điều gì cả ngoài những lo lắng đủ cách. Nhưng khi chúng ta học để đi vào tâm hồn qua tâm trí, thì tất cả trở nên một phần của đời sống chúng ta, dẫn đến sự hiện diện chữa lành của Chúa, và được Ngài đụng chạm vào chính con người chúng ta. Ở đây, chúng ta đang nói về một mầu nhiệm, vì lời nói thì không thích hợp. Đó là mầu nhiệm mà con tim là trung tâm con người, được Thiên Chúa biến đổi trở thành con tim của chính chúng ta, một trái tim đủ rộng để ôm ấp toàn vũ trụ. Nhờ lời cầu nguyện, chúng ta có thể mang trong tâm hồn mình mọi đau đớn và khốn khổ của nhân loại, mọi xung khắc và lo âu, mọi dày vò và chiến tranh, mọi đói kém, cô đơn, và khốn cùng, không nhờ vài khả năng tâm lý hoặc cảm xúc nhưng nhờ trái tim Thiên Chúa nên một với chúng ta.
Ở đây, chúng ta nắm bắt được ý nghĩa lời của Chúa Giêsu muốn nói “Hãy mang lấy ách của ta và hãy học cùng ta, vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng và anh em sẽ tìm được sự nghỉ ngơi cho linh hồn. Đúng vậy, vì ách ta êm ái và gánh ta nhẹ nhàng” (Mt 11,29-30). Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mang lấy gánh nặng của Ngài, đó là gánh nặng của toàn thế giới, một gánh nặng bao gồm đau khổ của nhân loại mọi thời mọi nơi. Nhưng gánh nặng này của Thiên Chúa thì nhẹ nhàng, và chúng ta có thể mang lấy khi trái tim chúng ta được biến đổi thành trái tim hiền lành và khiêm nhường của Thiên Chúa.
Ở đây, chúng ta có thể thấy mối tương quan thân mật giữa cầu nguyện và thừa tác vụ. Kỷ luật dẫn dắt toàn dân cùng với cuộc chiến đấu của họ đi vào trái tim hiền lành và khiêm nhường của Thiên Chúa, là kỷ luật cầu nguyện cũng như kỷ luật của thừa tác vụ. Bao lâu thừa tác vụ của chúng ta còn đầy lo lắng về dân chúng và vấn đề của họ; bao lâu còn đầy hoạt động không dứt mà chúng ta không thể điều phối, thì chúng ta còn lệ thuộc rất nhiều vào trái tim chật hẹp và lo âu của chính chúng ta. Nhưng khi chúng ta hướng những lo lắng của mình vào của trái tim của Chúa và bắt đầu cầu nguyện ở đó, thì thừa tác vụ và lời cầu nguyện trở thành hai biểu thị của cùng một tình yêu hải hà của Thiên Chúa.
Chúng ta đã thấy lời cầu nguyện của tâm hồn có ba đặc tính là: liên tục, bao hàm tất cả và được nuôi dưỡng bằng lời nguyện tắt. Cả ba đặc tính này cho chúng ta thấy cầu nguyện của tâm hồn, là hơi thở của đời sống thiêng liêng và của mọi thừa tác vụ ra sao. Vì vậy, việc cầu nguyện này không đơn giản là một hoạt động quan trọng, nhưng còn là chính trung tâm của đời sống mới mà chúng ta muốn đại diện và muốn giới thiệu cho người khác. Những đặc tình của cầu nguyện tâm hồn đòi hỏi một kỷ luật cá nhân rõ ràng. Để sống một đời sống cầu nguyện, chúng ta không thể không có những lời cầu nguyện riêng. Chúng ta cần đọc lời kinh bằng một công thức để chúng ta có thể lắng nghe Thánh Thần cầu nguyện trong chúng ta rõ hơn. Chúng ta cần phải thường xuyên đặt vào lời cầu nguyện của mình: mọi người chúng ta sống và làm việc chung với họ. Kỷ luật này giúp chúng ta biến đổi thừa tác vụ bị lo ra, chắp vá và thường thất bại thành thừa tác vụ thống nhất, toàn diện và rất hoàn hảo. Điều đó sẽ không biến thừa tác vụ nên dễ dàng nhưng là đơn giản; không biến thừa tác vụ nên ngọn ngào, đạo đức nhưng là linh thánh; không làm cho thừa tác vụ không còn đau khổ và chiến đấu nhưng được bình an theo nghĩa hesychastic thật sự.
Tóm lại
Trong thế giới lý trí định hướng của chúng ta, chúng ta cần một kỷ luật nghiêm túc để đến với việc cầu nguyện tâm hồn, ở đó chúng ta sẽ lắng nghe sự hướng dẫn của Chúa, Ngài cầu nguyện trong chúng ta. Điểm nhấn của lời cầu nguyện trong thừa tác vụ không phải là sự khích lệ rời xa dân chúng hoặc để mặc xã hội, với cuộc chiến đấu của nó. Cầu nguyện được hiểu nhờ hesychast giúp chúng ta biện phân, hoạt động thừa tác vụ nhằm làm vinh quang Thiên Chúa và chủ yếu là làm vinh quang cho cái tôi chưa hoán cải. Cầu nguyện của tâm hồn tặng ban cho chúng ta một cảm thức mới mẻ, khiến chúng ta có thể tách vỏ trấu khỏi lúa mì trong thừa tác vụ, và như vậy trở nên nhân chứng rõ ràng hơn của Chúa Giêsu Kitô.
Như thế, cầu nguyện của tâm hồn là con đường dẫn đến thanh tẩy con tim, đem lại cho con mắt chúng ta nhìn thấy thực tại của cuộc sống. Con tim thanh tẩy này cho phép chúng ta nhìn rõ hơn, không chỉ cái tôi thiếu thốn, biến dạng, lo lắng của chúng ta, nhưng còn khuôn mặt quan phòng của Thiên Chúa đầy lòng trắc ẩn. Khi thị kiến đó còn rõ ràng và tinh tế, thì nó sẽ có thể chuyển vào giữa thế giới ồn ào với một tâm hồn thư thái. Chính tâm hồn thư thái đó lôi cuốn những ai đi tìm kiếm con đường của họ ngang qua cuộc đời. Khi chúng ta đã tìm được sự nghỉ yên trong Chúa, chúng ta sẽ không làm gì khác ngoài thừa tác vụ. Sự nghỉ yên của Chúa sẽ rõ ràng, bất cứ nơi nào chúng ta đi và bất cứ ai chúng ta gặp. Và trước khi chúng ta nói bất cứ lời nào, Thánh Thần Chúa, cầu nguyện trong chúng ta, sẽ làm cho người ta biết sự hiện diện của Ngài và quy tụ họ lại thành một thân thể mới, thân thể của chính Chúa Kitô.
LỜI KẾT
Sau đây là vấn đề mà chúng ta bắt đầu khai triển về linh đạo sa mạc và thừa tác vụ hiện tại: “Chúng ta thi hành thừa tác vụ trong bối cảnh khải huyền thế nào?”. Trong một giai đoạn lịch sử bị chế ngự do sợ hãi gia tăng vì một cuộc chiến tranh bất khả kháng và một ý thức bất lực gia tăng, thì vấn đề của thừa tác vụ rất gấp rút.
Cũng với câu trả lời cho vấn đề này, tôi đã trình bày với những lời “bay khỏi thế giới, thinh lặng và cầu nguyện luôn”, những lời đã nói với ngài quý tộc Roma Arsenius, đã hỏi Chúa làm sao được cứu. Cô tịch, thinh lặng và cầu nguyện liên lỉ làm nên khái niệm cốt lõi của linh đạo sa mạc. Tôi nhận thấy chúng có giá trị quan trọng với chúng ta là những thừa tác viên, khi chúng ta tiến gần đến cuối ngàn năm thứ hai kitô giáo.
Cô tịch bày tỏ cho chúng ta con đường để cư xử phù hợp, không bị áp lực của thế giới nhưng bởi một tâm trí mới, tâm trí của Chúa Kitô. Thinh lặng ngăn cản chúng ta khỏi bị bóp nghẹt bởi thế giới nhiều lời nói và dạy chúng ta nói Lời Chúa. Cuối cùng, cầu nguyện không ngừng mang lại cho cô tịch và thinh lặng của chúng ta ý nghĩa thật của chúng. Trong cầu nguyện liên lỉ, chúng ta hướng tâm trí vào tâm hồn. Như vậy, chúng ta đi ngang qua trái tim mình để vào trái tim Chúa, Đấng ấp ủ toàn thể lịch sử bằng tình yêu sáng tạo và tái sáng tạo đời đời của Ngài.
Tuy nhiên, linh đạo sa mạc này có nhắm mắt làm ngơ những thực tại hiểm nghèo của thời đại chúng ta không? Không, ngược lại, cô tịch, thinh lặng và cầu nguyện để chúng ta cứu chính mình và tha nhân khỏi bị thất bại tang thương của xã hội tự huỷ diệt mình. Sự cám dỗ trở thành người điên, với những người điên và đi vòng quanh kêu la inh ỏi, nói với mọi người nơi phải đi, chuyện phải làm và cách phải cư xử. Cám dỗ trở nên quá dính bén vào những cơn hấp hối và ngây ngất trong những ngày cuối cùng đến nỗi chúng ta sẽ chìm cùng với những người mà chúng ta đang cố gắng cứu vớt.
Chính Chúa Giêsu cảnh cáo chúng ta:
“Anh em hãy coi chừng, đừng để ai lừa gạt anh em, vì có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: ‘Chính ta đây là Đấng Kitô’, và họ sẽ lừa gạt được nhiều người. Anh em sẽ nghe có giặc giã và tin đồn giặc giã; coi chừng đừng khiếp sợ vì những điều đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là tận cùng. Quả vậy, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có động đất ở nhiều nơi ... bấy giờ sẽ có nhiều vấp ngã. Người ta sẽ nộp nhau và thù ghét nhau. Sẽ có nhiều ngôn sứ giả xuất hiện và lường gạt được nhiều người. Vì tội ác gia tăng nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ giảm đi. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng kẻ ấy sẽ được cứu thoát. Tin mừng này về Nước Thiên Chúa sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết. Và bấy giờ sẽ là tận cùng” (Mt 24,4-14).
Những lời này của Chúa Giêsu là một điểm nhấn ấn tượng. Nhiệm vụ của chúng ta là bền chí đến cùng, để công bố Tin mừng cho toàn thế giới và phải bám vào Ngài, Đấng chiến thắng ra khỏi mồ. Các dòng thác lũ dữ dội của thời đại ồn ào khiến chúng ta rất khó khăn để không lạc mất tầm nhìn của sự sáng và không để chính mình trôi dạt vào bóng tối. Quyền bính và thống trị không chỉ bày tỏ sự hiện diện của chúng trong lãnh vực chính trị và kinh tế không ổn định của thời đại, nhưng cũng cho thấy khiếm khuyết của chúng trong những lãnh vực thâm sâu nhất của đời sống chúng ta. Sự trung tín của chúng ta trong các tương quan bị thử luyện nghiêm khắc và các tương quan nội tâm bị đặt vấn đề không biết là bao nhiêu lần. Sự giận dữ và tham lam của chúng ta có cơ hội để tăng lên mãnh liệt hơn bao giờ hết, và chúng ta có thể để cho dục vọng tăng lên đến nỗi đắm chìm trong chủ nghĩa khoái lạc tuyệt vọng.
Vâng, những nguy hiểm là rất thật. Chúng ta có thể sẽ trở nên ngôn sứ giả kêu lên, “xem này, Đức Kitô ở đây” hoặc là “Đức Kitô ở kia” (Mt 24,23). Có thể chúng ta sẽ lường gạt người ta bằng những bảo đảm tự tạo, và không chỉ có tình yêu của tha nhân mà cả chúng ta cũng trở nên lạnh lùng. Thế giới áp lực, nhiều lời lẽ và bị lý trí định hướng có sức mạnh ghì chặt chúng ta và chúng ta cần một kỷ luật rất mạnh mẽ và kiên trì để không bị nó dồn ép vào cái chết.
Nhờ cô tịch, thinh lặng và cầu nguyện không ngừng, các tổ phụ sa mạc chỉ cho chúng ta con đường. Những kỷ luật này sẽ dạy chúng ta đứng vững, nói lời cứu độ và tiến vào ngàn năm mới với hy vọng, can đảm và tin tưởng.
Khi chúng ta được đổi mới trở thành nhân chứng sống động của Đức Kitô qua cô tịch, thinh lặng và cầu nguyện, chúng ta sẽ không còn phải lo lắng về điều chúng ta đang nói có thật không hoặc cử chỉ chúng ta làm có đúng không, bởi vì khi đó Đức Kitô sẽ làm cho mọi người nhận biết sự hiện diện của Ngài, thậm chí chúng ta không ý thức điều đó.
Tôi sẽ kết thúc bằng một câu chuyện nữa về sa mạc.
“Hằng năm ba linh phụ thường đi thăm linh phụ Antôn thánh thiện và hai trong số họ thảo luận với ngài về những suy nghĩ và ơn cứu độ của các linh hồn, nhưng người thứ ba thường giữ thinh lặng và không hỏi Antôn bất cứ vấn đề gì. Sau một một thời gian dài, linh phụ Antôn nói với người đó: “Ngài thường đến thăm tôi nhưng không hỏi tôi bất cứ điều gì’, và người đó trả lời, ‘thưa cha, nhìn thấy cha đủ rồi” 1. .
Câu chuyện này là một kết thúc phù hợp với cuốn sách này. Nhờ thời gian, người ta cảm thấy rằng chỉ cần nhìn thấy chúng ta đã là thừa tác vụ, những lời nói khi đó sẽ không còn cần thiết nữa.
-
Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Ơn gọi lần thứ 61 năm 2024 (21/03)
-
Thư Thánh Bộ Các Tu Hội Sống Đời Thánh Hiến về Năm Thánh 2025 (26/11)
-
Linh mục triều và dòng có gì khác? (23/11)
-
Hiệp hành và đời sống đan tu: một kinh nghiệm được Chúa Thánh Thần truyền ban (21/10)
-
Hiệp thông trong đời sống cộng đoàn (31/03)
-
Thư của Bộ Tu Sĩ nhân dịp cử hành Ngày Đời Sống Thánh Hiến lần thứ XXVII (02.02.2023) (31/01)
-
Những tư tưởng tâm huyết của Đức Thánh Cha về linh mục (15/11)
-
CHÂN LÝ SẼ GIẢI THOÁT CHÚNG TA (21/09)
-
KHÁM PHÁ SỰ THINH LẶNG: 5 CÁCH THẾ ĐỂ RA KHỎI SỰ ỒN ÀO KỸ THUẬT SỐ (01/09)
-
QUẢN TRỊ, CHUYỂN NHƯỢNG TÀI SẢN TRONG GIÁO PHẬN (01/09)