Suy niệm

Đọc và suy niệm Tin Mừng TUẦN I MÙA VỌNG, 2017

Mùa Vọng là Mùa chuẩn bị đón mừng Đại Lễ Giáng Sinh, kính nhớ việc Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người; đồng thời qua việc kính nhớ này, các tín hữu hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế (x. AC 39).

 

Đọc và suy niệm Tin Mừng

TUẦN I MÙA VỌNG, NĂM B, 2017

 

 

03-12: CHÚA NHẬT I MÙA VỌNGKết quả hình ảnh cho HÌNH ẢNH mÙA vỌNG

 

04-12: THỨ HAI

05-12: THỨ BA 

06-12: THỨ TƯ

07-12: THỨ NĂM 

 

08-12: THỨ SÁU

ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI

Lễ trọng

09-12: THỨ BẢY

 

 Các bài chia sẻ: Hiền Lâm

 

 

CHÚA NHẬT I MÙA VỌNGNĂM B

 

+ ĐỌC TIN MỪNG: Mc 13,33-37

"Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức. Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ. Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức! "

 

+ SUY NIỆM

“TỈNH THỨC”

Bài Tin Mừng Chúa Nhật đầu tiên của năm Phụng Vụ hôm nay, Chúa Giêsu nói rằng “ngày Chúa đến” không đến một cách hiển nhiên có thể quan sát được. Một điều chắc chắn là có chung kết lịch sử, nhưng không một ai từ hàng chư thánh, các thiên thần đến loài người được biết về thời gian ngày tận thế.

 

* Chúa đến bất thình lình.

Ngày Chúa Ðến rất bất ngờ, nên đòi hỏi các tín hữu phải luôn tỉnh thức. Tỉnh thức có nghĩa là dấn thân tích cực trong giây phút hiện tại, chứ không phải là ăn không ngồi rồi mà chờ đợi. 

Điều không chắc chắn là không ấn định một ngày giờ cụ thể, nhưng điều chắc chắn là có ngày Chúa lại đến. Cũng như không ai biết mình chết ngày nào, nhưng chắc chắn là không sớm thì muộn mình cũng sẽ chết. Ngày tận thế sẽ đến bất ngờ và nhanh chóng và cái chết cũng đến với mỗi người bất ngờ như vậy. Vì thế, cần luôn tỉnh thức cầu nguyện và chuẩn bị hành trang thiêng liêng là làm việc lành phúc đức, để khi Chúa đến, Người sẽ gặp thấy người đầy tớ trung thành và khôn ngoan và triều đại Thiên Chúa sẽ thuộc về họ.

Chuyện Chúa đến không phải kiểu “sứ điệp này thị nhân nọ” tiên đoán, để rồi nhiều người mê muội cả tin lo đi chuẩn bị đồ ăn dự trữ, rốt cuộc chẳg xảy ra. Chúa đến bất kỳ lúc nào, bất ngờ như vậy để con người bày tỏ lòng trung tín qua việc tỉnh thức đợi chờ thời khắc vô cùng quan trọng để được hưởng hạnh phúc hay bị luận phạt đời đời. Vì nếu biết, thì con người sẽ phóng túng, “cứ để mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời…” (Lc 21,34), chờ sắp đến ngày chết mới lo liệu, và như vậy thì không còn gì là yêu mến và trung thành.

 

* Thái độ sẵn sàng

Chúa lại đến cách chung cuộc để cho ý nghĩa của mọi tạo vật được tỏ hiện. Điều này được Chúa Giêsu ví như một ông chủ đi công tác xa và giao quyền giữ cửa cho đầy tớ ở nhà và ra lệnh họ phải tỉnh thức, nhằm cảnh báo tính bất ngờ của một một sự trở về đầy bất ngờ nhưng chắc chắn sẽ xảy đến. Chính vì thế, người đầy tớ ở nhà cần tỉnh thức và chu toàn bổn phận chủ giao phó:

- Như người quản gia trung tín và có trách nhiệm: Một người quản gia trung tín khôn ngoan được biểu lộ qua việc luôn chu toàn công việc bổn phận là cứ đúng giờ cấp phát lương thực cho gia nhân; có tinh thần trách nhiệm sẽ luôn canh thức để tránh cho trộm khỏi đến đào ngạch khoét vách nhà mình. Một người làm việc có tinh thần trách nhiệm cao sẽ được hưởng hoa trái là hạnh phúc và sự bình an trong tâm hồn như người ta thường nói: “Cẩn tắc vô ưu”.

- Như người đầy tớ khôn ngoan: Tỉnh thức không phải là không ngủ, nhưng là ngủ trong tình trạng tỉnh thức, giống như người đầy tớ trung tín đợi chủ đi ăn cưới về vào bất cứ giờ nào trong đêm để khi chủ về gõ cửa là mở ngay.

- Như một sự biểu lộ niềm tin: Nghĩa là tin chắc chủ sẽ về và thao thức chờ đợi, tin chủ sẽ ân thưởng cho tôi tớ trung thành.

- Như một tâm tình yêu mến: Người đầy tớ trung tín, quán xuyến việc nhà khi chủ đi vắng, tận tâm chu đáo trong bổn phận hằng ngày. Anh ta làm việc tích cực y như có chủ ở nhà vậy, ta thấy hành vi này xuất phát từ tình yêu đối với chủ. Anh ta xem việc của chủ như là việc của anh và đã cố gắng chu toàn.

Cũng vậy, khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta được Chúa trao ban quản lý ân huệ của Chúa trên cuộc đời chúng ta. Chúa cũng trao ban cho chúng ta những ân huệ đặc biệt kèm theo khi chúng ta nắm giữ một chức vụ phục vụ nào. Chúa còn ban cho chúng ta sức khoẻ, thời giờ, cơ hội, hoàn cảnh để phục vụ và làm sinh lợi cho Chúa. Khi chúng ta chu toàn việc bổn phận với hết khả năng Chúa ban thì chúng ta đang là người quản lý tốt.

Tỉnh thức là thể hiện niềm tin Chúa sẽ đến, là biểu lộ lòng yêu mến chờ đợi Chúa, là trung tín với những gì Chúa giao phó và khôn ngoan làm sinh lợi cho sự nghiệp của Chúa.

Như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Sự tỉnh thức đích thực là chu toàn bổn phận của mình. Với một tinh thần trách nhiệm và với một tinh thần phục vụ quên mình, Người Kitô hữu luôn dấn thân vào mọi ngõ ngách cuộc đời và làm chứng cho Tin Mừng khi sống chu toàn bổn phận của mình, khi sống hết trách nhiệm với tha nhân và trong tinh thần phục vụ quên mình. Có như vậy, mới đáng được Chúa thưởng công.

 

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ban cho chúng con ơn đức tin và được làm con cái Chúa, xin cho chúng con biết dùng khả năng và thời giờ Chúa ban để làm cho đức tin được triển nở qua đời sống đạo đức hằng ngày, để khi Chúa trở lại, chúng con xứng đáng được Chúa ân thưởng phúc trường sinh. Amen.

 

 

THỨ HAI TUẦN I MÙA VỌNG

 

+ ĐỌC TIN MỪNG: Mt 8,5-11

Khi Đức Giêsu vào thành Ca-phác-na-um, có một viên đại đội trưởng đến gặp Người và nài xin: "Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà, đau đớn lắm." Người nói: "Chính tôi sẽ đến chữa nó." Viên đại đội trưởng đáp: "Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh. Vì tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: "Đi! ", là nó đi, bảo người kia: "Đến!", là nó đến, và bảo người nô lệ của tôi: "Làm cái này!", là nó làm." Nghe vậy, Đức Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: "Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế. Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời.

 

  1. SUY NIỆM

Trong Tin Mừng, ít khi chúng ta gặp thấy Chúa Giêsu khen, nhất là khi lời khen dành riêng cho một ai đó. Hôm nay, Chúa Giêsu khen ngợi niềm tin của một sĩ quan Rôma, lời khen thiết thực đến mức có sức chữa lành một người tôi tớ của vị sĩ quan này.

Điều lạ ở đây là người được Chúa Giêsu ca ngợi về niềm tin, không phải là một chức sắc tôn giáo Do Thái, cũng không phải là một đạo hữu Do Thái mà là một kẻ ngoại đạo, cầm quyền đô hộ dân Người.

Tại sao vậy? Thiết tưởng vì hai lý do:

 

* Khiêm tốn

Xét về thế giá và địa vị, viên sĩ quan này có quyền lực đại diện cho đế quốc Rôma để cai trị một vùng của người Do Thái, ông có lính tráng và kẻ hầu người hạ, thậm chí xét về mặt chính trị, ông còn có quyền bắt, trục xuất hoặc ngăn cấm Chúa Giêsu truyền đạo.

Thế nhưng, ông nhận ra nơi con người Chúa Giêsu không đơn thuần là một thầy dạy như các kinh sư, mà là một vị ngôn sứ của Thiên Chúa, nên ông đã cảm thấy bất xứng trước mặt Người. Ông nhìn nhận mọi chức vụ và địa vị đều dưới quyền của Thiên Chúa, và ông đã khiêm tốn nói lên: "Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh”. 

Lời xét mình này của ông đã được Giáo Hội dùng để cho chúng ta thân thưa với Chúa mỗi ngày trong thánh lễ trước khi đến rước Mình Thánh Chúa.

Ước gì mỗi lần chúng ta đọc lời này, chúng ta cũng có được sự ý thức về mình như viên sĩ quan trên đây, không ỷ vào địa vị mà vênh vang tự hào, nhưng quy về vinh quang Chúa, và nhìn nhận mình có là gì đều do ân huệ Chúa ban. Bởi trước mặt Chúa không phân biệt người có quyền cao chức trọng hay kẻ bần hàn cố nông, nhưng người cao trọng trong nước Chúa chính là hãy trở nên bé nhỏ, nghĩa là khiêm tốn.

 

* Niềm tin

Lời của viên sĩ quan: “Vì tôi cũng chỉ là một sĩ quan cấp dưới, tôi có những lính dưới quyền tôi, tôi bảo người này đi, thì nó đi; bảo người khác lại, thì nó lại; và bảo đầy tớ tôi làm cái này, thì nó làm".

Đây là một lời tuyên xưng đức tin cao độ. Với cách so sánh, ông tuy là quan nhỏ, nhưng cũng có cấp dưới và họ phải vâng lệnh ông, từ đó ông tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa, có quyền trên mọi quyền lực thần thiêng, có quyền trên mọi bệnh tật và tất cả đều phải vâng lệnh Người (quan niệm của người Do Thái tin bệnh tật là do tà thần và sự dữ). Điều đáng nói ở đây nữa là, một sĩ quan thường ỷ thế vào quyền lực và tiền bạc để lo lắng cho người đầy tớ, nhưng không, ông tin Chúa Giêsu mới có thể chữa lành và niềm tin của ông đã được đền đáp.

Còn chúng ta, đứng trước những khó khăn, đau khổ, bệnh tật… chúng ta có đặt niềm tin đủ vào Chúa để xin Người trợ lực không, hay là ỷ lại vào sức mình? Ước gì sau khi đọc bài Tin Mừng này, mọi người chúng ta xác tín hơn vào sự quan phòng của Chúa, để trong khi chúng ta ra sức đương đầu với những khó khăn và đau khổ của cuộc sống, biết chạy đến Chúa để được Người soi sáng và ban ơn trợ lực. Và trên hết, hãy tin tưởng và cầu xin Chúa chữa lành bệnh tật nơi tâm hồn chúng ta.

 

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng, nên Chúa cũng sẵn lòng cứu giúp những ai khiêm tốn, suy phục và đặt niềm tin nơi Chúa. Xin cho chúng con cũng biết khiêm tốn đến với Chúa, để được Chúa chữa lành những bệnh tật tâm hồn. Amen.

 

 

THỨ BA TUẦN I MÙA VỌNG

 

+ ĐỌC TIN MỪNG: Lc 10,21-24

 Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.

"Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho."

Rồi Đức Giêsu quay lại với các môn đệ và bảo riêng: "Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy! Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe."

 

+ SUY NIỆM

Mọi Kitô hữu đều có quyền tự hào vì được nhận biết Thiên Chúa và được làm con của Người cách trọn vẹn ngay từ lúc lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Chúng ta không chỉ dừng lại ở niềm vui được giải thoát tội nguyên tổ, mà vui mừng hơn là vì được làm con Thiên Chúa trong lòng Giáo Hội Công Giáo.

Hôm nay Chúa Giêsu vui mừng tạ ơn Chúa Cha đã mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những tâm hồn bé mọn, là hết những ai đón nhận và tin vào Người:

 

* Mầu nhiệm Thiên Chúa được mặc khải cho người bé mọn.

"Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn”.

“Mặc khải” có nghĩa làm cho những gì đã giấu kín được tỏ lộ ra, mang ra ánh sáng những gì đang ở trong bóng tối, hay làm cho một người hiểu những gì họ chưa biết hay còn mù mờ.

Chúa Giêsu so sánh giữa những người khôn ngoan thông thái với kẻ bé mọn để dạy mọi người cần có thái độ của trẻ thơ: tin tưởng, khiêm nhường, ham học hỏi, để Người chuyển thông cho họ những kiến thức về Thiên Chúa. Bởi vì, thái độ kiêu hãnh và nghi ngờ sẽ ngăn cản người ta nhận ra những gì Thiên Chúa muốn mặc khải cho.

Để hiểu Mầu Nhiệm Nước Trời, con người cần có thái độ khiêm nhường: trông cậy hoàn toàn vào Thiên Chúa chứ không phải ỷ vào sức mình.

Đức tin ở một cấp độ cao hơn lý trí, không lệ thuộc vào lý trí, nhưng lý trí có thể làm sáng tỏ đức tin. Thay vì giản lược một Thiên Chúa khôn ngoan uy quyền vào lý trí hạn hẹp; con người phải ra sức cầu xin để Thiên Chúa ban cho hiểu được phần nào sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa. Chứ không phải biết được chút gì thì đã kiêu ngạo nhân danh khoa học để bác bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa, hoặc không hiểu được một vấn đề thì lại cho là vô lý mà không nhận ra cái giới hạn của mình.

 

*  Biết Thiên Chúa

"Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho”

Biết ở đây không chỉ hiểu là nhận biết, mà còn là một sự liên kết thân thiết với nhau. Biết Đức Giêsu là ai là điều cốt yếu đối với chúng ta, vì điều mà Người ban tặng cho chúng ta là vô giá: đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa. Nhưng nếu Đức Giêsu không đến từ Thiên Chúa và không là Thiên Chúa thì lời hứa đó chẳng có giá trị gì. Chính vì vậy mà phải khám phá ra cho được Đức Giêsu là ai, vì nhờ đó mà chúng ta tìm thấy ơn cứu độ.

Được biết Thiên Chúa và nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai thật không dễ dàng, bởi vì việc nhận biết Thiên Chúa và tin vào Chúa Giêsu không phải do trí hiểu hay thực nghiệm khoa học, mà là một ân ban của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu đã nói: “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ nếu Chúa Con không mặc khải cho, và cũng không ai đến được với Chúa Con nếu Chúa Cha không lôi kéo họ” (Ga 6,44).

Mọi tín hữu khi nghe lời này của Chúa Giêsu, thật là hạnh phúc khi được biết Thiên Chúa là Cha và tin vào Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ và là Chúa của mình.

 

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết khiêm tốn nhận ra những giới hạn yếu đuối với mình, mà năng đến với Thánh Thể mỗi ngày, để tâm hồn chúng con được bổ dưỡng sức thần thiêng mà vượt thắng mọi khó khăn trên đường lữ thứ trần gian. Amen.

 

 

THỨ TƯ TUẦN I MÙA VỌNG

 

+ ĐỌC TIN MỪNG: Mt 15,29-37

Đức Giêsu xuống khỏi miền ấy, đến ven Biển Hồ Ga-li-lê. Người lên núi và ngồi ở đó. Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy dưới chân Người và Người chữa lành, khiến đám đông phải kinh ngạc vì thấy kẻ câm nói được, người tàn tật được lành, người què đi được, người mù xem thấy. Và họ tôn vinh Thiên Chúa của Ít-ra-en.

Đức Giêsu gọi các môn đệ lại mà nói: "Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường." Các môn đệ thưa: "Trong nơi hoang vắng này, chúng con lấy đâu ra đủ bánh cho đám đông như vậy ăn no? " Đức Giêsu hỏi: "Anh em có mấy chiếc bánh? " Các ông đáp: "Thưa có bảy chiếc bánh và một ít cá nhỏ." Bấy giờ, Người truyền cho đám đông ngồi xuống đất. Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được bảy thúng đầy.

 

+ SUY NIỆM

Hôm nay, khi đến với dân chúng, Chúa Giêsu thực hiện hai công việc của Đấng Cứu Thế, đó là chữa lành và nuôi dưỡng dân Người. Cả hai đều nói lên lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa đối với con người, nhất là những người đau khổ, vì họ vừa mang lấy bệnh tật thể lý vừa mang nặng bệnh tật tâm linh, vừa đói khát của ăn vật chất vừa đói khát của nuôi linh hồn.

Chúng ta được mời gọi cố gắng mặc lấy tâm tình của Chúa Giêsu mà đến với tha nhân.

 

* Biết cảm thương như Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu chạnh lòng thương (cái đói vật chất cũng như tinh thần của con người).

Tuy nhiên, Chúa không dùng quyền năng để hô biến đem của ăn từ đâu tới, nhưng Ngài muốn con người cộng tác dâng lên của ăn từ bàn tay lao động của con người (nghề trồng trọt – bánh; nghề đánh lưới - cá). 

Từ đó, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta:

- Cần có tâm trạng “chạnh lòng thương” của Chúa Giêsu trước những người kém may mắn, những người đói khát cả tinh thần lẫn vật chất (nghèo tinh thần là đói khát Lời Chúa và Thánh Thể..., nghèo đói vật chất là thiếu những nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống).

Rồi đi đến hành động như Chúa Giêsu là dâng lời tạ ơn Thiên Chúa Cha rồi bẻ ra phân phát cho dân.

- Chia sẻ: Giúp đỡ người khô khan trở về với Chúa, san sẻ phần mình cho kẻ đói nghèo trong mức độ có thể.

- Tạ ơn: mỗi người dâng cho Chúa phần của mình, dâng lời tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta lương thực hằng ngày.

- Bẻ ra: Mọi người đừng ăn một mình, nhưng hãy bẻ ra để chia cho những người khác thiếu may mắn hơn chúng ta.

- Trao cho: Nhạy bén trước nhu cầu của người đang đói mà đến trao cho họ, chứ không đợi họ phải xin rồi mới cho.

 

* Chính anh em hãy cho họ ăn.

Chúa chỉ đích danh từng người chúng ta, chính anh, chính chị…chứ không phải ông này bà kia cho họ ăn.

Nghĩa là chính mỗi người chúng ta có liên đới trách nhiệm với mọi người xung quanh chúng ta (nơi giáo xứ, trường học, nơi làm việc) cả tinh thần và vật chất.

- Về tinh thần: Có trách nhiệm về đức tin và đạo đức với cận nhân. Đó không phải chỉ là chuyện chỉ dành cho cha xứ, dành cho các Giáo Lý Viên, mà là mọi người con Chúa đều mang trên mình sứ mạng phải truyền bá và làm chứng đời sống đức tin và đạo đức cho anh em.

- Về vật chất: Biết chia cơm sẻ áo cho người thiếu thốn hơn mình. Đó không phải chỉ là việc của những nhà từ thiện, những tổ chức cứu trợ, mà là trong khả năng chung tay đóng góp của mình.

 

Lưu ý, CHO chứ không bảo họ phải mua của mình, không phải đưa ra lời khuyên họ ra quán mà mua (như giải pháp của các môn đệ đưa ra, đuổi khéo họ về cho họ vào làng mạc xung quanh để kiếm ăn).

Mọi người có tương quan liên đới và chịu trách nhiệm với nhau trong một giáo xứ, trong một trường học, trong nơi mình sống và làm việc, liên đới với đồng loại. Khi một thành viên trong giáo xứ làm điều xấu, thì thiên hạ đàm tiếu rằng nó là người của xứ đó, người của lớp đó, người của trường đó, người thuộc sự dạy dỗ của cha xứ đó, GLV đó… Và ngược lại, một người làm điều tốt, thì cũng liên đới như vậy…

Chúng ta có trách nhiệm giúp đỡ nhau sống đạo, giúp đỡ nhau sống đời. Chúng ta có bổn phận đưa tiễn và cầu nguyện cho người đã qua đời…

 

Tóm lại: Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa không những muốn ta có lòng cảm thương, mà còn cộng tác thiết thực với Chúa trong khả năng mình có thể, để xoá dần sự đói nghèo vật chất cũng như tinh thần của những người cần đến chúng ta, cách riêng nơi chúng ta đang sống.

Cúi lạy Chúa, xin mở rộng tay con

Đang nắm lại giữ khư tất cả

Trước nhà con bao người nghèo đói lả

Xin dạy con biết san sẻ vui lòng (CGKPV). Amen

 

 

THỨ NĂM TUẦN I MÙA VỌNG

 

+ ĐỌC TIN MỪNG: Mt 7,21.24-27

"Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa! " là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.

"Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành".

 

+ SUY NIỆM

Bài Tin Mừng hôm nay nói lên điều kiện để được vào nước Thiên Chúa không hệ tại ở việc tuyên xưng hay kêu cầu danh Chúa ngoài môi miệng, mà là việc thực thi ý Chúa. Thực thi ý Chúa nghĩa là đem những lời Chúa dạy trong Tin Mừng ra thực hành trong đời sống. Và ai thực hành lời Chúa thì có một nền tảng vững chắc trong đức tin và lòng yêu mến.

 

Cha Anthony de Mello có kể câu chuyện hài hước rằng: 

Có một người vô thần leo núi, chẳng may trượt té rơi xuống vực sâu, rất may ông ta bám được vào một cành cây nhô ra giữa chừng. Nhìn xuống vực sâu thăm thẳm và tay mỏi cùng cành cây sắp gãy, anh ta liền kêu lên: 

- Lạy Chúa, nếu có Chúa thật thì cứu tôi đi tôi tin liền.

Bỗng có tiếng bảo:

- Có Ta chứ, có thật ngươi tin không?

Ông ta liền kêu lên:

- Thưa tin, và cứu tôi đi, về tôi sẽ loan báo cho nhiều người cũng biết mà tin vào Ngài.

Tiếng đó lại bảo:

- Nếu ngươi tin có Ta thì hãy buông tay ra khỏi cành cây.

Ông ta đáp lại.

- Ngu gì mà buông, buông mà chết à? Bộ Chúa tưởng con điên chắc?

???

 

Giống như người vô thần trong câu chuyện trên đây, nói tin Chúa thì dễ lắm, nhưng thực hành điều mình tuyên xưng thật không dễ chút nào.

Trong tình yêu cũng thế, nếu chỉ dừng lại nơi đầu môi chót lưỡi thì là thứ tình yêu giả dối. Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ Lời Thầy” (Ga 14,23). Như thế, việc tuân giữ Lời Chúa là thể hiện lòng yêu mến đích thực. Chúng ta không thể nói yêu mến Chúa mà lại không tuân giữ Lời Người, vì như thế là nói dối. Thật vậy, giữa tin có Chúa và yêu mến Chúa phải là một khi tuân hành ý Chúa.

 

Tôi biết anh A chị B và tôi nhiều lần gọi tên họ, nhưng chắc gì tôi đã yêu mến họ ? Tôi tin có ông này bà nọ hiện hữu, nhưng chắc gì tôi yêu thích họ và tìm đến gặp họ?

Ma quỷ cũng tin có Chúa Giêsu hiện diện, nó biết rất đúng về Chúa Giêsu, thậm chí còn tuyên xưng Ngài giữa đám đông, nhưng liệu nó có yêu Ngài không? Thưa không.

 

Sống đạo, rất cần sự thể hiện ra thực tế, nhưng không ít những người tự cho mình “giữ đạo tại tâm”, không còn tham gia các hoạt động sinh hoạt công giáo, không tham dự các bí tích, nhất là thánh lễ, bỏ xưng tội rước lễ lâu năm… Hành động ngược lại với giáo huấn của Chúa và Hội Thánh. Đặc biệt, vì lo bon chen cuộc sống hằng ngày, chúng ta quên mất sự hiện diện của Chúa, bỏ bê các việc đạo đức. 

 

Điều mà chúng ta thường gặp phải là “ngôn hành bất nhất”, nói mà không làm, hoặc làm nửa vời. Nói Lời Chúa thì hay mà sống thì chẳng ra gì. Điều này được Chúa ví như xây nhà trên cát, nghĩa là không có móng, là mất gốc, mất căn bản của niềm tin, vì không bám sâu vào Lời Chúa, gặp khi thử thách xảy đến sẽ buông xuôi ngã lòng…

 

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết xây dựng đời mình trên nền đá vững chắc là Đức Ki-tô, để không có gì thuộc ma quỷ và thế gian có thể xô ngã được chúng con. Xin cho chúng con cũng biết dùng chính đời sống gương mẫu để làm chứng cho Chúa hơn là những lý thuyết suông nơi môi miệng. Amen

 

 

THỨ SÁU

08/12: ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI

Lễ trọng

 

+ ĐỌC TIN MỪNG: Lc 1, 26- 38

Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.

Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà." Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

Sứ thần liền nói: "Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."

Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng! "

Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được."

Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

 

+ SUY NIỆM

“ĐẤNG ĐẦY ÂN SỦNG”

Ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm, Phụng vụ Giáo hội cho chúng ta nghe bài Tin Mừng về cuộc truyền tin. Bài Tin mừng làm chói sáng lên với ba nét đẹp của Đức Maria là Đấng đầy ân sủng, là nữ tỳ khiêm hạ và lời đáp trả “xin vâng”: Ở đây, chúng ta đặc biệt suy tư về tước hiệu ĐẤNG ĐẦY ÂN SỦNG, vì chính điều này củng cố rõ nét nhất cho tín điều MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI mà Đức Pio IX đã tuyên bố trong thông điệp “Ineffabilis Deus”

 

* Ân sủng tái sinh.

Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội,  nghĩa là Đức Mẹ được đặc ân Thiên Chúa giữ gìn khỏi phải tội nguyên tổ.

Thế nhưng tội nguyên tổ là gì ? Cho đến nay vẫn không ít người cả đạo lẫn đời vẫn thắc mắc: Tại sao tội của một người phạm mà đời này qua đời khác con cháu vẫn phải mang và đứa trẻ mới sinh ra sao lại phại rửa tội nguyên tổ ?

Chúng ta có thể loại suy để tìm câu trả lời qua ví dụ sau:

Như một gia đình kia, bố mẹ có một lượng vàng, dự định sẽ cho đứa con trai làm của hồi môn khởi nghiệp khi nó lấy vợ. Không may tối hôm trước đám cưới, kẻ gian đã trộm mất lượng vàng, thế rồi ngày cưới bố mẹ không còn lượng vàng kia để cho đứa con trai nữa. Và rồi đứa con trai này cũng không có cây vàng đó để cho đứa con anh sinh ra… và sau này cứ tiếp tục mãi mãi dòng họ đến đời cháu chắt chit… vẫn không có cây vàng từ ông bà tổ truyền lại vì đã mất. Cho đến một ngày, có một vị ân nhân thương hoàn cảnh khổ sở nên đã tặng cho họ một lượng vàng để sinh sống.

Từ xưa, Bổn Lẽ Cần (Giáo Lý Căn Bản): “Tội nguyên tổ làm cho ông bà và con cháu mất sự sống siêu nhiên, mất đặc ân Chúa ban, hậu quả là phải đau khổ và phải chết” (x. GLCG số 416-419).

Như vậy, ban đầu ông bà nguyên tổ có sự sống siêu nhiên và ân sủng, nhưng do phạm tội bất tuân nên đã đánh mất đi sự sống siêu nhiên đó. Hệ quả là không có mà truyền lại cho con cháu từ đời này qua đời khác. Vì vậy, ý nghĩa đầu tiên của Phép Rửa Tội tức là tái sinh, là Chúa Giêsu Kitô trả lại cho chúng ta sự sống siêu nhiên đã mất và còn nâng nhân loại lên một tầm mức cao hơn nguyên thủy. Điều mà ông bà ao ước ngày xưa muốn nên như thần linh, thì nay Chúa Giêsu nói ngày sống lại sẽ như các thiên thần. tuy nhiên, con người sẽ trở nên như thần minh nhờ khiêm tốt và vâng phục, chứ không phải là kiêu ngạo và bất tuân.

Còn mẹ Maria, Mẹ cũng là con người, sao lại được đặc ân vô nhiễm ?

Điều này phải lẽ thôi, cũng như chúng ta có một món quà cao quý như vàng hay ngọc, đương nhiên chúng ta cất giữ nó và bảo vệ nó bằng chiếc hộp tốt nhất. Đức Maria cưu mang Đấng là Thiên Chúa, là món quà cao quý nhất của Chúa Cha trao tặng nhân loại, thì từ đời đời, Thiên Chúa đã chuẩn bị và giữ gìn một cung lòng tuyệt đối trong trắng và thánh thiện. Chúng ta đọc trong kinh cầu Đức Bà rằng: “Đức Bà như Hòm Bia Thiên Chúa vậy”.

Sau đây, chúng ta cùng nghe Giáo Hội nói qua các suy tư thần học:

 

* Ân sủng giữ gìn Đức Maria.

“Đấng đầy ân sủng”.

Ân sủng (Kharis - Kêkharitomênê): là tính từ thụ động trở thành danh từ "Đấng lấp đầy ân sủng". Từ sau lời chào: “Mừng vui lên, hỡi Bà đầy ân sủng”, Đức Maria được mang tên là Đấng Đầy Ân Sủng. Tước hiệu này được hiểu theo hai khía cạnh:

- Thiên Chúa đổ tràn đầy ân sủng. Ân sủng không do công nghiệp của con người, nhưng hoàn toàn là hồng ân nhưng không của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa muốn chọn cho Con Mình một người Mẹ trần thế để thực hiện mầu nhiệm Nhập Thể, Người đã chuẩn bị cho kẻ được chọn là Đức Maria “được tràn đầy ân sủng”. Chính việc tràn đầy ân sủng này làm cho các giáo phụ liên tưởng đến đặc ân vô nhiễm, Thiên Chúa gìn giữ Đức Maria khỏi tội, từ lúc được thụ thai… như thế mới xứng đáng đón nhận Con Thiên Chúa, Đấng không hề biết tội là gì, vào trong cung lòng mình.

- Hồng ân được ban để giúp cho nhân vật chu toàn một trách nhiệm do Thiên Chúa thiết đặt. Nói như thánh Phaolô “Hồng ân là để xây dựng nhiệm thể”. Ở đây còn cao trọng hơn: Đức Maria được trang bị hồng ân để làm Mẹ Đức Giêsu, Con Thiên Chúa

“Mừng vui lên, hỡi Bà đầy ân sủng” (Lc 1, 28).

Lời chào của thiên sứ Gabriel đã dứt khoát đưa Đức Maria vào mầu nhiệm Chúa Kitô, vào khởi nguyên mới của thời kỳ cứu độ đã đến. Sau lời công bố “Bà đầy ơn phúc”, thiên sứ còn cúi chào “con người được chúc phúc giữa các phụ nữ” (x. Lc 1, 42), điều này làm nổi bật lời chúc lành của Thiên Chúa Cha mà thánh Phaolô viết cho chúng ta trong thư Êphêsô: “Trong Đức Kitô, từ cõi trời Người đã thi ân giáng phúc, cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (Ep 1, 3). Đó là “lời chúc lành linh thiêng mang tính chất đầy tràn và phổ quát xuất phát từ tình yêu nối kết Chúa Con đồng bản thể với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần. Đồng thời đó cũng là lời chúc lành được tuôn đổ qua Đức Kitô Giêsu đến cho mọi người trong lịch sử nhân loại. Dù vậy, lời chúc lành này đến với Đức Maria thật phi thường: thật thế, bà Elizabeth cũng đã gọi Đức Maria là “diễm phúc hơn mọi người nữ” (Redemptoris Mater, số 3)

Theo ngôn ngữ Thánh Kinh, ân sủng là một ân ban đặc biệt, và theo Tân Ước, ân ban này có nguồn gốc từ Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng là tình yêu, mà hoa trái của tình yêu là sự tuyển chọn. Sự tuyển chọn thuộc về kế hoạch muôn đời của Thiên Chúa muốn cứu độ loài người bằng cách cho tham dự vào đời sống của Người trong Đức Kitô (x. 2Pr 1, 4).

Trong mầu nhiệm Chúa Kitô, Đức Maria đã hiện diện “trước cả khi tạo thành vũ trụ”, cùng như “trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn chúng ta trước cả khi tạo thành vũ trụ” (Ep 1, 4), vì Mẹ là Đấng được Thiên Chúa Cha “tuyển chọn” làm thân mẫu cho Con của mình trong mầu nhiệm Nhập Thể, và là Đấng được Chúa Con cùng với Chúa Cha tuyển chọn, bằng cách phó trao Mẹ từ muôn thuở cho Chúa Thánh Linh của sự thánh thiện. Đức Maria được liên kết với Chúa Kitô cách đặc biệt và độc đáo, nhờ đó, từ muôn thuở Mẹ được yêu mến trong Người Con chí ái này, trong Người Con đồng bản thể với Chúa Cha, trong Người Con đó tất cả vinh quang của ân sủng đều qui tụ về. Đồng thời, Đức Maria vẫn luôn rộng mở cho “hồng ân đến từ bên trên” (x. Gc 1, 17). Như công đồng Vaticano II dạy, Đức Maria trổi vượt trên các người khiêm hạ và khó nghèo của Thiên Chúa, là những người tin tưởng, hy vọng và lãnh nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa (Lumen Gentium số 2)

Đặc ân “đầy ơn phúc” cũng hướng đến toàn bộ hồng ân siêu nhiên mà Đức Maria đã lãnh nhận, chỉ vì Mẹ được tuyển chọn và được xác định làm Thân Mẫu Chúa Kitô, và sự tuyển chọn này có thể nói là độc nhất và phi thường, đưa đến đặc tính duy nhất của vị trí Đức Maria trong mầu nhiệm Chúa Kitô cứu độ. “Vinh quang của ân sủng” được biểu hiện nơi Mẹ Thiên Chúa qua sự kiện Mẹ được cứu độ lạ lùng (x. Ineffabils Deus) Nhờ ân sủng sung mãn của Người Con chí ái, dựa vào công nghiệp cứu độ của Đấng trở thành con của mình, Đức Maria đã được gìn giữ khỏi mọi tỳ ố của nguyên tội. Như thế, ngay từ giây phút đầu tiên thành thai, ngay lúc khởi đầu hiện hữu, Đức Maria thuộc về Đức Kitô, được thông phần vào ân sủng cứu độ và thánh hoá, và vào tình yêu xuất phát từ Người Con yêu dấu của Chúa Cha, Đấng qua mầu nhiệm Nhập Thể đã trở thành Con của Mẹ. Vì thế, trên bình diện ân sủng, nghĩa là việc tham dự vào bản tính thần linh, Đức Maria, nhờ Chúa Thánh Thần, nhận lãnh sự sống từ Người Con mà Mẹ sinh ra, và Đức Maria đón nhận “sự sống mới” này cách tràn đầy, thích ứng với tình yêu của Con dành cho Mẹ- và thích ứng với phẩm giá Mẹ Thiên Chúa- nên thiên thần đã gọi Mẹ lúc truyền tin là “Đấng đầy ân sủng” (Redemptoris Mater, số 10)

Như vậy, truyền tin chính là mạc khải mầu nhiệm Nhập Thể vào lúc khởi đầu việc thực hiện mầu nhiệm này trên trái đất. Việc Thiên Chúa ban tặng chính mình, ban tặng cuộc sống thiên linh của mình cho toàn thể thụ tạo, đặc biệt là cho con người, đạt tới đỉnh cao trong mầu nhiệm Nhập Thể. Thật vậy, mầu nhiệm này là đỉnh cao của tất cả hồng ân trong lịch sử nhân loại và của cả vũ trụ. Đức Maria được “đầy ân sủng” vì việc nhập thể của Ngôi Lời: sự liên kết của Con Thiên Chúa với nhân tính trong một bản vị được thực hiện và hoàn tất nơi Mẹ. Như công đồng Vaticano II khẳng định: “Đức Maria là Mẹ Con Thiên Chuá, do đó là Nữ Tử yêu dấu của Chúa Cha và là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Nhờ lãnh nhận ân sủng vô cùng cao quí, Mẹ đã trổi vượt mọi tạo vật khác trên trời dưới đất” (Lumen Gentium số 53)

Sách Giáo Lý Công Giáo số 722 cũng dạy: "Thánh Thần đã chuẩn bị Đức Maria bằng ân sủng. Mẹ “đầy ân sủng” vì là Mẹ của Đấng “nơi Người tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện, cách cụ thể” (x. Cl 2, 9). Chỉ nhờ ân sủng, Mẹ đã được thụ thai không hề mắc tội, như là thụ tạo khiêm tốn nhất, xứng đáng nhất để đón nhận hồng ân khôn tả của Đấng Toàn Năng. Thiên sứ Gabriel chào Mẹ bằng tước hiệu cao trọng “Nữ Tử Sion”: “Mừng vui lên!” Khi cưu mang Ngôi Con Hằng Hữu, dưới tác động Thánh Thần, Đức Maria đã dâng lên Chúa Cha lời tạ ơn của toàn thể Dân Chúa là Hội Thánh.

 

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống cuộc đời trong sạch, biết noi gương Mẹ Maria mà sống “xin vâng” theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, hầu mai ngày chúng con cũng được cùng với mẹ chung hưởng vinh quang trong Nước Chúa. Amen.

 

 

THỨ BẢY TUẦN I MÙA VỌNG

 

+ ĐỌC TIN MỪNG: Mt 9,35 – 10,1.6-8

 Họ vừa đi ra thì người ta đem đến cho Đức Giêsu một người câm bị quỷ ám. Khi quỷ bị trục xuất rồi, thì người câm nói được. Dân chúng kinh ngạc, nói rằng: "Ở Ít-ra-en, chưa hề thấy thế bao giờ! " Nhưng người Pha-ri-sêu lại bảo: "Ông ấy dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ."

Đức Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.

 Đức Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng: Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về."

Rồi Đức Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, để ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.

Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en. Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.

 

+ SUY NIỆM

Bài Tin Mừng hôm nay như một bản tóm tắt về sứ vụ của Chúa Giêsu:

- Đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành mọi bệnh tật cho dân.

- Chạnh lòng thương vì dân chúng vất vưởng lầm than không người chăn dắt, như lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt.

- Chúa cần thợ gặt cộng tác nên ban năng quyền cho các môn đệ.

- Sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng và làm các việc như Chúa đã làm.

 

* Sứ mệnh tiếp nối rao giảng Tin Mừng

Chủ đề chính của Tin Mừng hôm nay là việc Chúa Giêsu chạnh lòng thương trước hiện trạng của con người vất vưởng lầm than, mà những bậc làm “thầy” Do Thái không giải quyết được cho họ. Họ như rắn mất đầu, thiếu vắng đời sống tâm linh. Trong bản tính nhân loại, một mình Chúa cần sự cộng tác của các môn đệ cùng làm công việc của Người như một “mục tử” và “lương y”.

Trước sự bao la của hoạt động tông đồ, điều đầu tiên mà Chúa Giêsu yêu cầu các môn đệ là cầu nguyện: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít! Các con hãy xin Chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”. Cầu nguyện là hình thức dấn thân đầu tiên của các môn đệ cho sứ vụ. Bởi vì nếu người ta tin vào tầm quan trọng của sứ vụ mà người ấy phải thực hiện, thì mọi việc đều có thể làm được để nó sẽ không chết cùng với chúng ta, mà đúng hơn là nó vẫn tiếp tục với những người khác qua chúng ta và sau chúng ta. 

Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng, vì Chúa muốn rằng sứ mệnh rao giảng của Chúa cần được tiếp tục mãi trong thời gian từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhờ qua những con người được mời gọi cộng tác với Chúa, làm công việc của Chúa với những quyền năng do Chúa ban cho. Sự hiện diện và sứ mệnh của Giáo Hội qua các thời đại trong lịch sử đều nằm trong chương trình của Chúa ngay từ đầu và do ý Chúa muốn, chứ không do sáng kiến của con người. 

 

* Rao giảng và chữa lành

Tác giả Tin Mừng còn mô tả sứ mệnh của các môn đệ được Chúa sai đi bằng rao giảng và chữa lành bệnh tật. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, chúng ta có thể nói rằng đây là sứ mệnh toàn diện ôm trọn cả con người xác hồn. Rao giảng và chữa lành, công bố sự thật ban ơn cứu rỗi của Chúa và chăm sóc cho cuộc sống phần xác được lành mạnh, đó là cứu rỗi và phát triển luôn đi đôi với nhau. Hay nói cach khác, Tin Mừng và cuộc sống liên kết với nhau, đời sống tôn giáo và phát triển xã hội cùng song hành.

Đời sống tôn giáo và sự phát triển xã hội là nét mới được khám phá nơi chủ đề Tin Mừng hôm nay: Khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, chúng ta mang trên mình sứ vụ làm công việc của Chúa, công bố sự thật của Chúa, phân phát ơn cứu rỗi đã được Chúa thực hiện. Đồng thời, khi rao giảng Lời Chúa thì cũng không thể lơ là hay đóng kín trước những việc phục vụ cho công cụ phát triển xã hội, phục vụ lợi ích tốt lành cho anh chị em.

 

Lạy Chúa Giêsu, khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, chúng con mang trên mình sứ vụ làm công việc của Chúa, công bố sự thật của Chúa, phân phát ơn cứu rỗi đã được Chúa thực hiện. Xin cho chúng con khi rao giảng Lời Chúa thì cũng không thể lơ là hay đóng kín trước những việc phục vụ cho công cụ phát triển xã hội, phục vụ lợi ích tốt lành cho anh chị em. Amen.

 

Hiền Lâm

Thiết kế Web : Châu Á