Suy niệm

Chia sẻ Chúa Nhật IV Mùa Vọng, B - LỄ GIÁNG SINH - Tuần Bát Nhật Giáng Sinh.

Chúa Giêsu nhập thể và nhập thể cách trọn vẹn khi Ngài mang lấy một thân phận con người, sinh ra nơi một gia đình, giữ mọi tập tục lễ nghi...

 

 

Đọc và suy niệm Tin Mừng

Chúa Nhật IV Mùa Vọng, B - LỄ GIÁNG SINH - Tuần Bát Nhật Giáng Sinh

 

CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM B  Kết quả hình ảnh cho hình ảnh Mừng Chúa Giáng Sinh gif

 

LỄ GIÁNG SINH – LỄ ĐÊM

LỄ GS – LỄ CHÍNH NGÀY

 

26-12: Thánh STEPHANO  - Tđ tiên khởi

27-12: Thánh GIOAN TÔNG ĐỒ

28-12: Các thánh ANH HÀI

 

29-12: Ngày V tuần Bát Nhật Giáng Sinh

30-12: Ngày VI tuần Bát Nhật Giáng Sinh

 

Các bài suy niệm: Hiền Lâm

 --------ooo)))+(((ooo-------

 

 

CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, Năm B

 

+ ĐỌC TIN MỪNG: Lc 1, 26-38

Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.

Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà." Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền nói: "Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."

Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng! "

Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được."

Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói." Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

 

+ SUY NIỆM

“XIN VÂNG”

Bài Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Vọng năm B hôm nay, tường thuật về một cuộc đối thoại quan trọng nhất cho vận mạng loài người - cuộc đối thoại giữa Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel với cô thôn nữ làng Nazareth là Đức Maria. Cuộc truyền tin này mang một ý nghĩa sống còn khi tạo vật nín thở chờ tiếng “xin vâng” của Đức Maria để Con Thiên Chúa nhập thể đi vào trần gian.

 

Truyền tin chính là mạc khải mầu nhiệm Nhập Thể vào lúc khởi đầu việc thực hiện mầu nhiệm này trên trái đất. Việc Thiên Chúa ban tặng chính mình, ban tặng cuộc sống thiên linh của mình cho toàn thể thụ tạo, đặc biệt là cho con người, đạt tới đỉnh cao trong mầu nhiệm Nhập Thể. Thật vậy, mầu nhiệm này là đỉnh cao của tất cả hồng ân trong lịch sử nhân loại và của cả vũ trụ. Đức Maria được “đầy ân sủng” vì việc nhập thể của Ngôi Lời: sự liên kết của Con Thiên Chúa với nhân tính trong một bản vị được thực hiện và hoàn tất nơi Mẹ.

 

“Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót đã muốn Đấng được tiền định làm mẹ phải nói lên sự ưng thuận của mình trươc khi mầu nhiệm nhập thể được thực hiện; để như một người nữ sẽ phục vụ cho sự chết, thì một người nữ sẽ phục vụ cho sự sống. Điều này lại càng thích ứng hơn nữa trong trường hợp của Mẹ Đức Giêsu: Mẹ sẽ sinh Sự Sống cho thế gian; Sự Sống này sẽ canh tân tất cả; vì thế Mẹ được Thiên Chúa tặng ban nhiều hồng ân để có thể đáp ứng cho một phận vụ cao trọng như thế” (GH 56).

Ngay giây phút tượng thai, Đức Maria đã được Thiên Chúa trang điểm bằng sự thánh thiện cao vời; nên lúc truyền tin, Mẹ cũng được thiên thần chào kính là “Đấng đầy ân phúc”, và Mẹ đã đáp lời thiên sứ rằng: “Là nữ tỳ Thiên Chúa, tôi xin vâng”. Như thế, Đức Maria là con cháu Ađam, khi vâng nghe tiếng Chúa, đã trở thành Mẹ Đức Giêsu. Với trọn tâm hồn và không một tội lỗi nào ngăn cản, Mẹ đón nhận ý định cứu độ của Thiên Chúa, tự nguyện làm nữ tỳ của Chúa để phục vụ cho con người và công trình của Thiên Chúa, tùy thuộc vào liên kết với Đức Kitô nhờ ân sủng của Thiên Chúa toàn năng, để hoàn toàn phục vụ cho mầu nhiệm cứu độ. Trọn lịch sử cứu độ, và theo một nghĩa nào đó, trọn lịch sử loài người, đều được liên kết với biến cố truyền tin. Thật vậy, nếu kế hoạch của Thiên Chúa Cha là quy tụ tất cả trong Đức Kitô (x. Ep 1, 10), thì cả vũ trụ đều được ân huệ thần linh tác động, với ân huệ này, Thiên Chúa Cha đã đoái nhìn đến Đức Maria để làm cho Mẹ trở thành Thân Mẫu Con của Người. Về phần mình, cả nhân loại như được gói trọn vào trong tiếng “xin vâng” (fiat), qua đó Đức Maria đã mau mắn nói lên sự ưng thuận của mình đối với ý định của Thiên Chúa.

 

Đức Maria nhận ra ý muốn của Đấng Toàn Năng trong lời thiên sứ và tùng phục quyền năng của Người, Mẹ đáp lại: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1, 38). Thời điểm đầu tiên của sự vâng phục… Đức Maria ưng thuận sự lựa chọn của Thiên Chúa, để nhờ Chúa Thánh Thần, trở thành Mẹ của Thiên Chúa, vì Mẹ được hướng dẫn bởi tình yêu hoàn toàn “tận hiến” cho Thiên Chúa một con người nhân bản, để cộng tác trọn vẹn mối hiệp thông vào chương trình cứu độ.

 

Lời “xin vâng” không chỉ nói lên sự khiêm nhường và vâng phục cách đơn thuần, nhưng còn hơn thế nữa, Người xác tín và hoàn toàn đồng ý với chương trình của Thiên Chúa, nghĩa là “ngay bây giờ sẽ  thụ thai”, mà Giuse chưa biết gì cả. Khi chấp nhận chương trình của Thiên Chúa, thụ thai để làm Mẹ Đấng Cứu Độ, Đức Maria biết rất rõ sự nguy hiểm đang chờ đón mình là có thể mất mạng vì luật Môsê sẽ ném đá thiếu nữ đã đính hôn mà có thai ngoài hôn nhân (x. Đnl 22, 22- 23). Tiếng “xin vâng” là một tiếng can đảm vâng phục, tin tưởng phó thác cả mạng sống vào tay Thiên Chúa và tiếng “xin vâng” đó sẽ theo suốt cuộc đời của Đức Maria cho đến cây thập giá. Âm thầm chấp nhận tất cả, vì chương trình của Thiên Chúa.

 

Tuy nhiên, cũng cần hiểu đúng trong sự “xin vâng” của Đức Maria chất chứa hoàn toàn với tất cả ý thức và tự do, Người được thiên sứ Gabriel giải thích ý nghĩa công trình của Thiên Chúa muốn được thực hiện nơi con người của Mẹ. Thật vậy, ý định của Thiên Chúa luôn được thi hành và chương trình của Thiên Chúa luôn được thực hiện, nhưng không phải bằng cách cưỡng bách hay ép buộc. Khi chương trình Thiên Chúa liên can đến con người mà Thiên Chúa trang bị cho được tự do, thì có thể nói, chương trình ấy phần nào lệ thuộc vào sự cộng tác của con người (như thánh Augustino từng nói). Nếu Thiên Chúa sử dụng con người như những “con tốt” trên bàn cờ hay như những vật vô tri trong vũ trụ, thì mọi sự sẽ diễn ra trong trật tự và ổn định, nhưng Thiên Chúa đã không muốn thế, vì như vậy sẽ tước đi sự tự do -điều quí giá nhất trong tình yêu- con người, làm cho sự đáp trả mất đi ý nghĩa và giá trị của nó. Cũng thế, Đức Maria, với cả “nhân vị” của mình, Người đã thưa tiếng “xin vâng” với sự cộng tác cao nhất, trong sự tự do và trách nhiệm, cùng với một tình yêu không mức độ.

Như vậy, khi nói lời “XIN VÂNG”, Đức Maria trở thành một khí cụ tuyệt hảo trong tay Thiên Chúa để ban ơn cứu độ cho nhân loại. Đức Maria được tràn ngập ân sủng và nhờ Người- trong Đức Kitô- ân sủng được tuôn đổ cho nhân loại. Đức Maria đã qui về Thiên Chúa tất cả mọi đặc ân và vinh quang nhận được, khiêm tốn nhìn nhận mình là “nữ tỳ hèn mọn” và tất cả là do Thiên Chúa. Đặc biệt Đức Maria đã can đảm thưa tiếng “xin vâng” để suốt cuộc đời âm thầm chấp nhận phó thác mình cho Thiên Chúa hầu cộng tác cứu độ loài người. Cũng thế, ân sủng, khiêm tốn và xin vâng là căn bản mà mỗi Ki-tô phải có, vì để trở thành khí cụ trong bàn tay Thiên Chúa hầu đem Tin Mừng đến cho mọi người.

 

Lạy Mẹ Maria, xin mẹ cầu bầu cho chúng con luôn bước đi trong ân sủng, khiêm tốn qui hướng mọi sự về cho Thiên Chúa và không tự phụ về những thành công mình đạt được. Đặc biệt, luôn phó thác hoàn toàn cho Thiên Chuá trong sự vâng phục thánh ý Người, để nên hiến lễ hằng ngày dâng lên Thiên Chúa hầu mưu ích cho các linh hồn. Amen

 

 

ĐẠI LỄ CHÚA GIÁNG SINH

(lễ đêm)

 

+ ĐỌC TIN MỪNG: Lc 2,1-14

Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít tức là Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.

Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ." Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:

"Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

bình an dưới thế cho loài người Chúa thương."

 

+ SUY NIỆM

“TÌNH YÊU CỨU ĐỘ”

Đọc bài Tin Mừng thánh lễ Đêm Giáng Sinh hôm nay, tôi chợt nhớ đến hình ảnh ngày 13 tháng 6  hằng năm tại đền thánh An-tôn Trại Gáo (Giáo phận Vinh). Dịp lễ này, khắp nơi đổ về dự lễ có khi lên đến cả mấy chục ngàn người. Ai đến sớm vào 2 ngày trước  thì còn tìm được một chỗ kha khá, ít ra là có thể tìm được chỗ qua đêm trên nền gạch trong sân đền thờ; còn những người đến sau thì phải tìm chỗ rất xa tận trên sườn núi, hay ngoài cách đồng. Đã về nơi đây dự lễ thì phải chấp nhận mọi thiếu thốn, đặc biệt khi phải tìm chỗ ngủ ở sườn núi hay ngoài đồng, không mùng mền hay điện nước, nhưng ai cũng như ai chỉ có mảnh bạt hay tấm áo mưa mang theo trải lên sỏi đá. Dân cư xung quanh đền thánh An-tôn không có nhiều các dịch vụ đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi của khách, nên giàu hay nghèo cũng như nhau, nhưng ai nấy đều vui vẻ hòa chung với nhau trong một niềm vui tạ ơn Chúa qua lời chuyển cầu của thánh An-tôn.

 

Trở lại với bối cảnh thành Bê-lem xưa trong dịp kiểm tra dân số, có lẽ cũng vì không đủ chỗ trọ tốt vì lượng người đổ về đây quá nhiều, nên thánh Giuse và Mẹ Maria đành tìm chỗ trú qua đêm nơi một chuồng bò hay một hang đá cô quạnh chăng, nhất là khi Mẹ Maria đã đến ngày sinh nở ?

 

Có một điều chắc chắn là Con Thiên Chúa đã chọn sinh ra nơi tột cùng của sự nghèo hèn thiếu thốn. Con Thiên Chúa đi vào đời, sinh vào một quốc gia và một thể chế Tôn Giáo, nhất là đất nước và tôn giáo đóng vai trò khởi đầu ơn cứu độ, thì đương nhiên nhập gia tuỳ tục. Chúa Giêsu nhập thể và nhập thể cách trọn vẹn khi Ngài mang lấy một thân phận con người, sinh ra nơi một gia đình, giữ mọi tập tục lễ nghi.

 

Khắp nơi trên thế giới ngày hôm nay, những người ngoài Ki-tô giáo cũng chia sẻ niềm vui Giáng Sinh, người thì nhân cơ hội kết nối tình thân hữu qua cánh thiệp, món quà hay lời cầu chúc, kẻ thì dùng dịp Giáng Sinh như một thời cơ phát triển thương mại, người khác chỉ đơn giản vui giáng sinh vì hình ảnh một em bé dễ thương mỉm cười nằm trong những mang cỏ được trang trí đèn nến lung linh…

Nhưng ít ai hiểu được ý nghĩa căn cốt của việc Con Thiên Chúa đi vào trần gian trong sự tận cùng của sự khó nghèo và hèn kém nhất của xã hội. Để lý giải cho vấn đề này, chúng ta cùng tập chú suy niệm qua hai ý sau đây:

 

*  Ý nghĩa tình yêu cứu độ.

Nhiều người vẫn thắc mắc rằng, nếu Thiên Chúa quyền năng thì chỉ cần ở chốn trời cao phán xuống một lời thì cứu độ được thế gian, cần gì phải chọn cách nhập thể vào nơi tục lụy và gánh lấy kiếp khổ đau như vậy…?

Với lối trả lời theo thần học có lẽ cao siêu quá nên nhiều người khó chấp nhận, vì thần học trả lời rằng: “Chúa Giêsu chọn phương cách nhập thể là vì muốn cho con người biết rằng, con người có một giá trị rất cao quý mà Ngài không ngại mặc lấy thân xác con người, và cũng qua sự nhập thể Ngài nâng phẩm giá con người lên”. Chúng ta có thể đưa ra một lối giải thích bình dân qua ví dụ minh họa như sau: Cũng như một chàng trai muốn tìm kiếm bạn đời, mà cứ ở một chỗ, không đến nhà cô gái, không tìm gặp nàng, không trao đổi tìm hiểu nàng, mà cứ ở nhà gọi điện thoại, gửi tin nhắn, thư điện tử… để tỏ tình, thì làm sao cô gái kia nhận lời được. Hơn nữa, phần lớn người Việt Nam còn có tục phải đi làm rể, thì mới có cơ hội cưới được nửa kia của đời mình. Chúa Giêsu cũng thế, nếu Ngài cứ ở trên trời nói vọng xuống: “Ta yêu các con, Ta sẵn sàng chết vì các con…” thì làm sao con người kiểm chứng được tình yêu đó và đáp lại được. Vì thế, Chúa Giêsu phải xuống với con người, cùng chấp nhận kiếp sống, cùng đồng hành chia sẻ và sẵn sàng hy sinh để cứu con người là đối tượng mà Ngài yêu.

 

* Cảm thông với thân phận yếu hèn của con người.

Có thể nói sẽ rất khập khễnh trong tình yêu giữa Thiên Chúa và thụ tạo nếu Thiên Chúa giữ vai vế của Thiên Chúa để yêu, nên Người đã hạ cố xuống ngang hàng với con người mới có thể cảm thông và chia sẻ được.

Có câu chuyện kể rằng: “Một ngày kia thái tử Suseig đi dạo qua cánh đồng của Mada, tình cờ trên đường đi thái tử và đoàn tùy tùng gặp một cô thôn nữ đang gánh lúa về qua con đê đầu làng. Thái tử nhìn theo không chợp mắt và lòng thấy xôn xao khó tả… Về nhà thái tử ra ngẩn vào ngơ, nhiều đêm không ngủ và nhiều lần muốn xin vua cha để đi gặp cô thôn nữ ngày nào. Thấy diện mạo của thái tử mỗi ngày một khác đi, vua Erèp lo lắng và triều đình cũng xôn xao lo cho sức khỏe của Suseig. Vua Erèp liền triệu tập các quan từng tháp tùng thái tử đi dạo và hỏi han mới hiểu sự việc xảy ra như thế, vua biết Suseig không có bệnh gì mà chỉ là “đang yêu” mà thôi. Vua ngỡ ngàng không hiểu tại sao trong triều đình có nhiều công nương xinh đẹp thì thái tử không yêu, lại để lòng thương nhớ một cô thôn nữ xa xôi, quê mùa và chỉ xứng với hàng nô lệ. Nhưng vì là Quý Tử nên vua vẫn chiều lòng Suseig và hy vọng qua cuộc hôn nhân này, sẽ hàn gắn được những rạn nứt trước đây, vua sẽ nhân cơ hội ấy mà tha bổng tội bất trung cho gia đình Nada, đồng thời xóa bỏ lệnh cấm vận và mở cửa ngoại giao với họ.

Được vua ban lệnh, thái tử Suseig hồi hộp chuẩn bị lên đường, nhưng một vị tướng cao niên đã hỏi thái tử:

Thưa điện hạ! Có chắc là cô gái đó sẽ nhận lời cầu hôn của điện hạ không?

- Ta chắc là như vậy.

Nhưng nếu điện hạ đi với tư cách là một thái tử đầy quyền lực oai phong, thì cô gái đó chấp nhận kết hôn chỉ vì sợ hoặc vì ham giàu sang danh vọng?

- Vậy thì ta sẽ cắm lều ở trong làng với nàng, ta sẽ cùng lao động khổ cực, chia sẻ những vất vả như một người hàng xóm thực thụ để dần dần chinh phục trái tim nàng.

Nhưng thưa điện hạ! Lỡ nàng đã có người yêu và kẻ tình nhân sẽ giết điện hạ thì sao?

- Không sao cả, nếu có rủi ro như vậy, lúc ta ngã xuống mà được nghe nàng thốt lên “I love you!” thì ta đã mãn nguyện rồi.

… Và thái tử Suseig đã đến, đã yêu và từng bị ngã xuống, đã được yêu, đã cưới được cô dâu về cho vua cha”.

 

Thiết nghĩ, nếu Chúa Giê-su đến trần gian trong tư cách một ông hoàng, hay sinh hạ vào nơi cung triều hoa lệ, thì Người có thể cảm thông được kiếp dân đen nghèo hèn tội lỗi không?

Vâng, chính vì thế mà Con Thiên Chúa đã đi vào trần gian trong thân phận nghèo hèn thiếu thốn, để cứu chuộc con người và làm cho cuộc đời mang một ý nghĩa mới trong Ơn Cứu Chuộc của Người.

 

Lạy Chúa Giê-su, đêm nay, đêm thánh vô cùng, đêm mà Chúa đã giáng sinh vào nơi nghèo hèn tội lỗi để thánh hóa kiếp lầm than của nhân loại thàng thánh, thành vương quốc Nước Trời, thành dân thánh và mọi người trở nên người nhà và là an hem với Chúa. Xin cho chúng con cũng biết sống tinh thần nhập thế như Chúa, là hòa mình vào mọi kiếp đời bất hạnh, hầu giúp mọi người có được phẩm giá xứng đáng, và đặc biệt hơn nữa là trở thành con cái Chúa. Amen.

 

 

ĐẠI LỄ GIÁNG SINH

(Lễ ban ngày)

 

+ ĐỌC TIN MỪNG; Ga 1,1-18

Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.

Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,

và Ngôi Lời là Thiên Chúa.

Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.

Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,

và không có Người,

thì chẳng có gì được tạo thành.

Điều đã được tạo thành

ở nơi Người là sự sống,

và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.

Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối,

và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.

Có một người được Thiên Chúa sai đến,

tên là Gio-an.

Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng,

để mọi người nhờ ông mà tin.

Ông không phải là ánh sáng,

nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.

Ngôi Lời là ánh sáng thật,

ánh sáng đến thế gian

và chiếu soi mọi người.

Người ở giữa thế gian,

và thế gian đã nhờ Người mà có,

nhưng lại không nhận biết Người.

Người đã đến nhà mình,

nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.

Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,

thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.

Họ được sinh ra, không phải do khí huyết,

cũng chẳng do ước muốn của nhục thể,

hoặc do ước muốn của người đàn ông,

nhưng do bởi Thiên Chúa.

Ngôi Lời đã trở nên người phàm

và cư ngụ giữa chúng ta.

Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,

vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,

là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.

Ông Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố:

"Đây là Đấng mà tôi đã nói:

Người đến sau tôi,

nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi."

Từ nguồn sung mãn của Người,

tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.

Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê,

còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có.

Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả;

nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa

và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,

chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.

 

+ SUY NIỆM

“NGƯỜI ĐÃ ĐẾN NHÀ MÌNH

NHƯNG KHÔNG ĐƯỢC ĐÓN NHẬN”

Thời Phong Kiến xưa, có những vị minh quân ngoài việc thiết triều bàn nghị việc nước, điều khiển việc quốc gia đại sự, có vị bởi muốn hiểu nhân tình thế thái thế nào nên vi hành vào chốn nhân gian. Các vị cải trang thành một anh học trò nghèo đem một vài võ vệ bí mật đi theo để đi vào những nơi dân tình khốn khổ, nhằm biết đời sống của dân và lòng dân thế nào (chẳng hạn vua Lê Thánh Tông – Nước Việt 1460 - 1497, và một số vị vua đời nhà Tống – Trung Quốc). Thường thì không ai nhận ra vua và thậm chí có vị còn bị các quan xã bắt giam mỗi khi lên tiếng chống lại sự bất công của dân mình trước sự nhũng nhiễu của cường hào.

Câu chuyện vi hành của các minh quân trên cho ta hai ý để suy niệm về Tin Mừng lễ Giáng Sinh hôm nay:

Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (Ga 14).

Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1,14)

 

* Ngôi Lời đã hóa nên xác phàm.

Để đi đến với thần dân, các vị minh quân phải hóa trang thành một người bình thường mới có thể trà trộn vào trong dân để hiểu biết và đồng cảm được với cảnh sống của dân. Con Thiên Chúa từ trời cao muốn đi vào trần gian để đồng cảm và giải thoát dân khỏi áp bức bạo tàn, khỏi nô lệ cho ma quỷ và tội lỗi, thì Người phải hạ thân mặc lấy xác phàm. Muốn Nhập Thế thì Chúa phải Nhập Thể, đó là ý nghĩa đầu tiên của việc Con Thiên Chúa Giáng Sinh làm người.

Nhờ đó «Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa» (Ga 1,12. Thật vậy, Chúa làm người để con người được thông phần vào bản tính thần linh của Chúa mà chiêm ngưỡng vinh quang Người (x. 2Pr 1,4). Thánh Irene giải thích: “Con Thiên Chúa trở thành con cái loài người, để con cái loài người được trở nên con Thiên Chúa”. Còn thánh giáo phụ Clémẹnt (Alexandrie) và Grégoire (Naziance) lại quả quyết mạnh hơn: “Thiên Chúa đã làm người để con người làm chúa”. Khi nói đến quyền làm chúa của con người, các giáo phụ xác quyết lại tình trạng con người khi phạm tội nguyên tổ đã mất«quyền làm con» và «quyền làm chủ», trở nên «nô lệ» cho ma quỷ, xác thịt và tội lỗi (Domini: Chúa, domini: ông chủ). Thì đây, khi Đấng Cứu Độ đến là ban lại «quyền làm con Thiên Chúa», và giải phóng con người khỏi «nô lệ» ma quỷ, đặc biệt là «làm chủ» trên ma quỷ, thế gian và tội lỗi. Không những thế, từ nay con người còn trở nên nghĩa tử và đồng thừa tự với Đức Kitô.

 

* Người nhà không đón nhận.

Không nhận ra vua là vì ai cũng chung một quan niệm vua thì oai phong lẫm liệt khoác vương bào ngồi trên kiệu có quan quân tiền hô hậu ủng. Vua thì không thể nào là khố rách áo ôm không nhà không cửa… Đó cũng là quan niệm chung của người đương thời với Chúa Giêsu. Họ quan niệm Đấng Cứu Thế đến phải là rất quyền lực và oai phong như Vua Đa-vít đến đánh dẹp Rôma và lên ngôi hoàng đế, nên không chấp nhận một Đấng Cứu Thế khiêm nhường hiền hậu như Đức Giêsu được.

Chính vì thế mà như Tin Mừng Gioan viết: Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1,14).

Không đón nhận là vì ai cũng đang tìm kiếm một Đấng giàu sang vinh hiển quyền năng, chứ làm sao chấp nhận được một Hài Nhi chào đời trong một hoàn cảnh nghèo đến mức không thể nghèo hơn được nữa. Đến nỗi dấu để nhận ra Ngài không phải trên xa giá kim long mà là «Hài Nhi nằm trong máng cỏ».

Không đón nhận là vì ngày hôm nay, chính chúng ta đang tiếp tục vẽ ra một vị Thiên Chúa làm sao cho hợp với đam mê của mình, chúng ta ham quyền lực nên tôn thờ một kiểu Thiên Chúa uy quyền đánh phạt, chúng ta ưa danh vọng, nên vẽ ra Thiên Chúa giàu sang quyền quý…

Không đón nhận là vì chúng ta muốn một Thiên Chúa sinh ra theo ý mình, đồng nghĩa với việc chúng ta giết chết một Thiên Chúa đích thực, là một Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa chịu đóng đinh và là Thiên Chúa của người nghèo.

 

Hệ quả là cũng như những người Do Thái xưa, chúng ta quan niệm những vị đại diện Chúa sai đến, phải là oai phong hơn người, và chúng ta dành cho các vị một khoảng cách rất xa so với những người thân cận đang cần đến chúng ta giúp đỡ.

Đáng trách hơn là không thiếu những người “được coi là đại diện Chúa”, như «các đấng các bậc» đã tự trang bị cho mình một sự vượt trội người khác, thay vì nổi trội về lòng mến và kiến thức về Chúa, thì lại lo sắm sửa cho mình những tiện nghi sang trọng, để được mọi người kính nể, và tự phân cấp thành một bậc cao hơn trên dân Chúa, không thể đến với người nghèo và hạ mình cúi xuống phục vụ những người đau khổ. Như thế, chẳng khác nào chúng ta đang tôn thờ một Thiên Chúa ‘thần tài’ và giết chết Thiên Chúa là Đấng đã chết đi vì những người hèn kém nhất trong xã hội.

 

Tóm lại, Mừng biến cố Chúa Giáng Sinh để khởi đầu một kỷ nguyên mới của bình an và hạnh phúc, thì cũng muốn mỗi người chúng ta một khởi đầu mới là dành cho Chúa một nơi ở trong trái tim mình, dành cho Chúa một chỗ trong đời sống mình để Giáng Sinh. Đồng thời loại bỏ những gì biến dịp giáng sinh thành dịp để ăn chơi, hưởng thụ khoái lạc, kinh doanh buôn bán, chạy theo các giá trị phù du...

… 

Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ tội lỗi cho chúng con, bởi vì chúng con được ví như “người nhà” của Chúa, nhưng nhiều lần Chúa đến viếng thăm tâm hồn chúng con thì chúng con lại từ chối vì không nhận ra Chúa, bởi tâm trí chúng con quen với tư tương một Thiên Chúa quyền lực thỏa mãn đam mê của chúng con hơn là một Thiên Chúa Tình Yêu. Amen.

 

 

Ngày 26 tháng 12

NGÀY II TRONG TUẦN BÁT NHẬT GIÁNG SINH

Lễ kính thánh Stephano Tử đạo tiên khởi

 

+  BÀI TIN MỪNG: Mt 10,17-22

"Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết. Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.

"Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.

 

+ SUY NIỆM

Liền sau việc kính nhớ ngày Con Thiên Chúa giáng sinh vào trần thế, Giáo Hội mừng một người con ưu tú – vị tử đạo đầu tiên đi vào cõi trời vinh hiển – là thánh Stephano.

Thánh Stephano là một trong 7 vị phó tế đầu tiên của Giáo Hội do chính các Tông Đồ tuyển chọn và đặt tay ban Thánh Thần. Với cái chết oai hùng của thánh Stephano, đã làm ứng nghiệm, đã sống và chết theo Lời Thầy Chí Thánh đã tiên báo trong bài Tin Mừng hôm nay.

 

Chúa Giêsu đã tiên báo về sự bách hại mà các tông đồ và những ai bước theo Chúa sẽ phải chịu, nhưng trong mọi thử thách bách hại luôn có Chúa đồng hành để ban Thánh Thần soi sáng và sức mạnh để làm cho các chứng nhân nên kiên vững và làm chứng cho Người.

 

* Chịu bách hại vì mang danh Chúa.

Chúa Giêsu tiên báo điều này đã ứng nghiệm từng câu chữ trong những thời kỳ bách hại. Biết bao người mang danh Kitô hữu đã phải chịu bắt bớ, ngược đãi, loại bỏ, tù đày, tra tấn và bị giết chết để làm chứng cho Chúa Kitô.

Ngày nay, sự bách hại vẫn diễn ra, nhưng mang tính tinh vi và trường kỳ. Vì danh Chúa, người môn đệ phải đối diện với những thử thách do nội tâm, do xác thịt, do cuộc sống và do xã hội gây nên.

Để được vinh thân phì gia và được ca tụng, không ít người Công Giáo đã không ngại “chối Chúa” là từ bỏ lề luật, bỏ đạo để bán mình cho “tà thần”(…). Nhẹ hơn, không ít người giấu diếm để khỏi người khác biết mình là người Công Giáo vì sợ bị chê cười hoặc bị kỳ thị trong công việc… Còn những ai dám sống thật và dám làm chứng cho Chúa và cho sự thật thì cái giá họ phải trả là chịu bách hại đủ đường từ chính thể chế chúng ta đang sống cũng như mất đi những cơ hội tiến thân…

Là Kitô hữu, chúng ta vẫn thích một sự dễ dãi hơn là những hy sinh sớm tối. Gặp khó khăn chúng ta không dám đối diện với sự thật mà tìm cách né tránh; gặp đau khổ thì dễ than trách hơn là nhẫn nhục lập công phúc trước mặt Chúa.

 

* Ơn soi sáng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần.

Chúa Giêsu khích lệ: “Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, và phải nói gì, vì ngay trong giờ đó Thánh Thần sẽ dạy cho anh cho anh em biết những điều phải nói”.

Chúa Thánh Thần hướng dẫn con người đi tìm chân lý, đi tìm sự thật. Qua mọi thời và mọi nơi, Chúa Thánh Thần an ủi và nâng đỡ Giáo Hội và các Kitô hữu can đảm tuyên xưng đức tin. 

Thật vậy, trong hành trình sống đạo, chúng ta có Thiên Chúa luôn quan phòng đồng hành qua bảy ân sủng của Chúa Thánh Thần, nhất là sự khôn ngoan, hiểu biết và mạnh bạo để làm chứng cho Chúa. Tình thương Thiên Chúa luôn quan tâm săn sóc con người  bao bọc và bảo vệ con người, nên hãy luôn tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. 

 

Lạy Chúa Giêsu, giữa cuộc đời này, chúng con luôn bị giằng co giữa tin hay không tin, chọn Chúa hay chọn thế gian, chọn hy sinh từ bỏ hay thoả hiệp tình cảm, thú vui, danh vọng và quyền lực. Xin cho chúng con, một khi đã tin vào Chúa, phải sẵn sàng vượt lên và thậm chí trên cả tình cảm gia đình ruột thịt để dứt khóat chọn Chúa, bước theo và làm chứng nhân cho Ngài. Amen.

 

 

Ngày 27 tháng 12

NGÀY BA TRONG TUẦN BÁT NHẬT GIÁNG SINH.

Lễ kính thánh Gioan Tông Đồ

 

+ BÀI TIN MỪNG: Ga 20,2-8

Buổi sáng ngày phục sinh, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ.2 Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu."
Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin.

 

+ SUY NIỆM

Trong Tin Mừng thứ tư dưới tên gọi Gioan, chúng ta luôn gặp những từ ngữ biểu tượng. Có thể nói, Tin Mừng này được coi là khó giải thích nhất, lời lẽ cao siêu và kín ẩn nhất. Bản văn Tin Mừng vừa được coi là của thánh Gioan viết, nhưng cũng vừa là của nhóm Gioan, hay“trường phái Gioan” hoặc “văn chương Gioan”.

Cũng như trong sách Sáng Thế, khởi đầu của cuộc sáng tạo, tên của ông A-đam vừa là tên gọi, nhưng cũng có ý nghĩa là “người” nói lên cả nhân loại. 

Trong Tin Mừng Gioan, sự kiện Phục Sinh được nhìn như một cuộc “Tân Sáng Tạo”, mà tất cả những ai thuộc về cuộc Tân Sáng Tạo, nghĩa là được cứu chuộc này, được gọi là ‘môn đệ được Chúa yêu”.

Khi Tin Mừng Gioan dùng chữ “người môn đệ được Chúa yêu”, có thể để chỉ chính thánh Gioan, mà cũng có thể để nói về những người con của Hội Thánh.

Chúng ta gặp từ “môn đệ được Chúa Giêsu yêu” ít nhất 4 lần trong những biến cố rất quan trọng:

 

* Đêm Tiệc Ly – “Tựa đầu vào ngực Chúa Giêsu” (x.Ga 13,23-25).

Hình ảnh tựa đầu vào ngực là hành động tình yêu của một cô gái nép vào ngực của bạn trai, cả hai cảm nhận tình yêu dành cho nhau, lắng nghe được sự rung cảm của hai con tim con tim và hơi thở… 

Cũng thế, dưới ngòi bút của “Văn chương Gioan”, Giáo Hội được ví như Hiền Thê đang nép mình vào lòng Chúa Giêsu là Đức Lang Quân.

Như thế, với ngôn ngữ biểu tượng, hình ảnh Gioan tự đầu vào ngực Chúa trong lúc tâm hồn Chúa thổn thức và xao xuyến về sự phản bội của Giuđa, như là Giáo Hội hôm nay đang nép mình bên lòng Chúa vừa để cảm nhận tình yêu của Chúa, vừa để đền tạ sự bội nghĩa vong ân của con người.

 

* Dưới chân thánh giá – “Đón nhận lời trăng trối” (x. Ga 19,26-2).

Hình ảnh “Người môn đệ được Chúa yêu” đón nhận lời trăng trối của Chúa Giêsu, là đón nhận Mẹ Maria về nhà. Đây là một hình ảnh mà hầu hết các nhà chú giải coi đây là việc Chúa Giêsu trao cho Giáo Hội mẹ Maria.

Một số anh em Tin Lành bấy lâu nay vẫn cho rằng, sau khi sinh Chúa Giêsu, Đức Mẹ còn sinh thêm nhưng người con nữa, nên không còn đồng trinh. Họ đã dựa vào những bản văn nói về anh em của Chúa mà không chịu coi đó là anh em họ. Thì đây, xin hỏi người Tin Lành rằng, nếu Đức Mẹ còn những người con khác, thì với một chàng thanh niên với một phụ nữ khoảng hơn 40 tuổi, liệu các đứa em của Chúa có chịu để cho Gioan đưa mẹ mình về nhà không?
Ở đây, chúng ta không nhằm để tranh cãi, nhưng điều quan trọng là chúng ta lại một lần nữa gặp thấy ngôn ngữ biểu tượng “người môn đệ được Chúa yêu” là hình ảnh của Giáo Hội, đón nhận Đức Maria làm mẹ và làm Đấng bảo trợ.

 

* Ngôi mộ trống – “ông đã thấy và đã tin” (x. Ga 20,8).

Đây là sự kiện mà bài Tin Mừng hôm nay mô tả, “người môn đệ được Chúa yêu” chạy ra mộ, thấy ngôi mộ trống và đã tin.

Nhiều người chú giải rằng, Gioan nhường Phêrô vào mộ trước là vì ông nhận quyền “bề trên” của Phêrô. Giải thích như thế có lẽ không chính xác lắm, bởi lẽ, lúc này Chúa Giêsu chưa trao quyền cho Phêrô, mà phải chờ lúc hiện ra sau này với các môn đệ (x. Ga 21,15-19). 

Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây không phải chuyện ai trước ai sau, mà là nền tảng đức tin của chúng ta, như “môn đệ được Chúa yêu đã thấy và ĐÃ TIN”. Sự kiện “Ngôi Mộ Trống” đều được cả 4 Tin Mừng kể lại, đặc biệt thánh Matthêu đã vạch mặt sự lừa đảo của “chính quyền Do Thái” đã cho lính canh tiền để họ nói dối rằng: “Đang đêm khi chúng tôi ngủ, môn đệ đã đến lấy trộm xác” (x.Mt 28,11-15). Câu hỏi được đặt ra là: “tại sao lính canh mà lại ngủ? ngủ thì làm sao biết được các môn đệ trộm xác để mà nói? Ăn trộm mà lại lo cuốn các băng vải và khăn xếp ngăn nắp…?” nhất là luật thời đó, lính canh mà ngủ thì bị xử tử hết (x.Cv 12,19). 

Như vậy, chủ đích của đoạn Tin Mừng hôm nay, trong ngôn ngữ biểu tượng, “người môn đệ Chúa yêu” là hình ảnh Giáo Hội chứng kiến sự kiện ngôi mộ trống, chứng kiến những chứng tích và ĐÃ TIN. Đó là đức Tin muôn đời không lay chuyển của kitô hữu chúng ta.

 

* Lập “Giáo Hoàng” – (x Ga 21,15-21…).

Khác với các Tin Mừng Nhất Lãm, Tin Mừng thứ tư kể chuyện thiết lập quyền bính cho Phêrô không phải bởi các lần tuyên xưng Đức Tin trước phục Sinh, mà là việc mời gọi thánh Phêrô tuyên xưng lòng mến sau Phục Sinh (trong cuộc Tân Sáng Tạo). Lúc này, dưới sự chứng kiến của “người môn đệ được Chúa yêu”. Ở đây một lần nữa chúng ta gặp lại hình ảnh của một Giáo Hội tin tưởng và phục tùng quyền bính chăn dắt của các Đấng kế vị thánh Phêrô.


Tóm lại:

Qua Bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần ý thức mỗi một kitô hữu chúng ta là “người môn đệ được Chúa yêu”. 

Để rồi hãy biết đến nép mình bên lòng Chúa để cảm nhận tình yêu và phạt tạ Người.

Đón nhận mẹ Maria làm mẹ để được mẹ che chở ủi an.

Nhìn thấy Chúa qua các bí tích và tin tưởng tuyệt đối vào Đấng Phục Sinh.

Chân nhận, tin tưởng và phục tùng các đấng bản quyền mà Chúa đã đặt lên chăn dắt chúng ta.

 

Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con đang sống giữa thế sự phong trần, với bao vui buồn của cuộc sống, cũng biết đến với Chúa, như thánh Gio-an đã tựa đầu vào ngực Ngài, để chúng con cùng cảm nhận được nhịp đập của trái tim yêu thương của Chúa dành cho chúng con, hầu chúng xứng đáng là “những người được Chúa yêu”, và biết yêu như Chúa đã yêu. Amen

 

 

Ngày 28 tháng 12 

NGÀY THỨ TƯ TRONG TUẦN BÁT NHẬT GIÁNG SINH.

Lễ các thánh Anh Hài.

 

+ ĐỌC TIN MỪNG: Mt 2,13-18

Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giu-se rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy! " Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập. Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.

Bấy giờ vua Hê-rô-đê thấy mình bị các nhà chiêm tinh đánh lừa, thì đùng đùng nổi giận, nên sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh. Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a: "Ở Ra-ma, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Ra-khen khóc thương con mình và không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa.

 

+ SUY NIỆM

Linh mục Ngô Phúc Hậu có bài thơ dí dỏm:

“Cái nồi và cái ghế

Cái ghế và cái nồi

Cả đạo lẫn đời

Đều có cái nồi và cái ghế”

 

Có thể nói, việc đam mê cái ghế quyền lực không chỉ là chuyện của thời nào, mà là có từ khi có thế giới loài người và sẽ tồn tại cho đến tận thế. Người ta tìm mọi cách và mọi thủ đoạn để đoạt được cái ghế quyền lực, và khi đã đoạt được thì người ta cũng tìm cách bảo vệ nó bằng bất cứ giá nào. Việc này vẫn đã và đang xảy ra trong xã hội chúng ta, từ cấp nhà nước đến làng xã, len lỏi cả vào trong Giáo Hội, thậm chỉ ảnh hưởng cả vào trong các tu viện khi không thiếu những người tìm mưu tính kế hạ bệ người khác để mình được thăng lên.

 

Hôm nay, bài Tin Mừng tường thuật việc các thánh Anh Hài bị giết bởi bàn tay bạo quyền của Hêrôđê, âu cũng vì ông lo sợ cái ghế của ông bị lung lay.

Mang danh là Hêrôđê Cả và được Rôma cho cai trị một số vùng miền Bắc Palestin, với cái tính hèn nhát, vua nhìn đâu cũng thấy nguy cơ phản bội, đến nỗi ông không ngại giết chết 3 đứa con trai ruột vì sợ nó tiếm ngôi. Hôm nay, vua ra tay tàn sát các hài nhi ở Bêlem và vùng phụ cận, “giết lầm hơn bỏ sót” với hy vọng Hài Nhi Giêsu sẽ bị giết trong số các hài nhi.

 

Dưới ngòi bút của thánh ký Matthêu, chúng ta gặp thấy một lần nữa, thánh nhân tài tình lồng ghép một hình ảnh Cựu Ước để làm nổi bật vai trò của nhân vật trong tân ước mà Tin Mừng đang nói tới: Một hình ảnh Giuse trong cựu ước tiên trưng cho thánh Giuse – người công chính; Abraham và Giacaria đều nhận lời hứa sinh con trong lúc tuổi già… Thì hôm nay, phảng phất hình ảnh của Môsê hiện ra trong tường thuật về biến cố Hài Nhi Giêsu trốn sang Ai Cập.

Trong sách Xuất Hành, kể chuyện vua Pharaô sợ con cái Israel thêm đông số sẽ phản bội nên đã ra lệnh giết các bé trai sơ sinh, nhưng nhờ sự khôn khéo của người mẹ, Môsê đã được sống sót và trở thành vị cứu tinh của Israel khi đưa dân ra khỏi đất Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ và vào miền Đất Hứa (x.Xh 1,8-10)

Hôm nay, Hêrôđê chỉ vì sợ Hài Nhi Giêsu lớn lên sẽ chiếm mất ngôi nên đã ra tay sát hại các hài nhi ở Bêlem, nhưng Hài Nhi Giêsu đã thoát chết nhờ thánh Giuse và mẹ Maria đang đêm đã bồng chạy qua Ai Cập, để rồi sau này, chính Hài Nhi Giêsu đã trở nên Đấng Cứu Tinh, giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi, tiến vào quê trời.

 

Đáng tiếc cho Hêrôđê là ông không biết Hài Nhi Giêsu đâu màng gì ngai báu trần gian, hơn nữa tất cả đều nằm trong chương trình của Thiên Chúa:

Qua biến cố này, càng cho thấy Đức Giêsu đã sống mầu nhiệm Nhập Thể cách trọn vẹn, tự huỷ mình ra không (kénosis), đến mức như một đứa trẻ không có khả năng tự vệ. Đồng thời, Người đã phải sống kiếp lưu vong và nô lệ của dân Do Thái xưa nơi đất khách quê người Ai Cập, để cảm thông và giải phóng con người.

 

Tóm lại, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa dạy chúng ta:

- Tập sống khiêm tốn tự hạ, chứ đừng vì cái chức cái quyền hay quyền lợi mà bày mưu kế hãm hại tha nhân. 

- Sống mầu nhiện nhập thể của Chúa Giêsu Kitô cách trọn vẹn, khi chấp nhận mang lấy kiếp sống của con người hôm nay, để qua chúng ta, ơn cứu độ của Chúa đến với mọi người.

 

Lạy Chúa, ngày nay bao trẻ em vô tội vẫn đang tiếp tục bị giết bởi thiếu dinh dưỡng, bởi không được bảo vệ, và đặc biệt do chính những người cha người mẹ chỉ vì danh dự hoặc khó khăn mà tàn độc giết chính con mình ngay từ trong bào thai. Xin Chúa khơi dậy lên ý thức và lương tâm mọi người, để họ biết tôn trọng sự sống là ân huệ cao quý nhất mà Chúa ban cho con người. Amen.

 

 

Ngày 29 tháng 12

NGÀY V TRONG TUẦN BÁT NHẬT GIÁNG SINH

 

+ BÀI TIN MỪNG: Lc 2,22-35

Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa", và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông.Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

"Muôn lạy Chúa, giờ đây

theo lời Ngài đã hứa,

xin để tôi tớ này được an bình ra đi.

Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ

Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:

Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,

là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài."

Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-ôn vừa nói về Người. Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà."

 

+ SUY NIỆM

Sự kiện dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và thánh tẩy Đức Trinh Nữ đã được thánh sử Luca ghi lại (Lc 2,22-39). Sự kiện này nhằm thực hiện những lề luật đã được ghi rõ trong sách Lê-vi Lv 12,8 và Xuất Hành 13,2. Trung tín với lề luật, Mẹ Maria và thánh Giuse đã đem hài nhi lên Giêrusalem tiến dâng cho Thiên Chúa Cha. Trong biến cố trọng đại này, làm nổi bật lên hai đặc điểm sau đây:

- Chu toàn lề luật.

- Cộng tác trong chương trình cứu độ.

 

* Chu toàn lề luật.

Biến cố Mẹ và thánh Giuse đem Đức Giêsu vào đền thánh để dâng cho Thiên Chúa được Tin Mừng Luca lồng ghép hai nghi thức thánh tẩy cho Mẹ sau khi sinh và dâng Đức Giêsu (Con đầu lòng) cho Thiên Chúa thành một. Có người cho rằng đây là một cách Luca dùng để ngầm ý làm nổi bật sự kết hợp giữa Đức Giêsu và Mẹ Người trong việc tiến dâng cho Thiên Chúa Cha. Luca muốn diễn tả biến cố này là một sự thánh tẩy đền thờ hơn là Mẹ được thanh tẩy. Thật vậy, cách trích dẫn Cựu Ước ở đây, cho thấy Luca chú ý đến tính thần học hơn là về phương diện lịch sử.

Có lẽ thánh ký Luca không quan tâm lắm đến việc Mẹ cần tẩy uế, vì Người không thể bị ô uế khi sinh ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng Chí Thánh và thanh sạch, cũng như Mẹ là Đấng thanh sạch vì được tràn đầy ân sủng, nên lễ thanh tẩy ở đây có lẽ Luca muốn ám chỉ đền thờ Giêrusalem. Vì từ khi Hòm Bia bị mất (vào 587), đền thờ đã trở nên trống rỗng và xem như Thiên Chúa không còn hiện diện nữa. Nay Đức Giêsu Cứu Thế đến, đền thờ lại được tràn đầy, Thiên Chúa lại hiện diện, và như thế, đền thờ được tẩy uế.

Cách kể chuyện của Luca còn cho thấy việc dâng Chúa Giêsu trong đến thánh như là một cuộc gặp gỡ giữa Cựu Ước và Tân Ước (giữa Simêon và Anna đại diện cho Cựu ước với Đức Giêsu là Đấng khai mở Tân Ước). Trong khi Matthêu cố minh chứng Đức Giêsu chính là Môisê mới, thì có vẻ như Luca lại thích áp dụng Đức Giêsu như là vị ngôn sứ Samuel mới. Thực ra Luca thấm nhuần hình ảnh của Samuel từ bài ca của bà mẹ hiếm muộn Anna, cho đến việc Samuel được bà Anna dâng vào đền thờ để phục vụ Thiên Chúa (x. 1Sm 1, 22-28); còn “cha mẹ Đức Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người” (Lc 2, 27). Điều này cho thấy Giuse và Maria tuân giữ lề luật rất kỹ càng, làm cho việc “sống dưới lề luật” của Đức Giêsu càng nổi bật.

 

* Cộng tác trong chương trình cứu độ.

Lời tiên báo của ông Simêon: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn hồn Bà” (Lc 2, 35) là một mặc khải về viễn tương đau khổ của Đức Giêsu cũng như của chính Mẹ Maria, và từ đó cùng với Con mình, Mẹ Maria bước vào cách mãnh liệt sự hiệp thông cứu chuộc, để tâm hồn nhiều người được tỏ lộ, Mẹ đồng hành với công cuộc truyền giáo của Con và kết hiệp với hy tế của Con (sosio passionis) hầu mưu cầu sự cứu rỗi cho con người. Lời của ông Simeon như một cuộc truyền tin thứ hai cho Mẹ; vì đã cho Mẹ thấy chiều kích cụ thể trong lịch sử, trong đó Con của Mẹ sẽ thực hiện sứ vụ của mình: giữa sự cứng tin và trong đau khổ. Một mặt, nếu lời loan báo này xác nhận niềm tin của Mẹ vào việc Thiên Chúa sẽ thực hiện các lời hứa, thì mặt khác cũng cho thấy Mẹ phải sống sự vâng phục đức tin trong đau khổ, bên cạnh Đấng Cứu Độ khổ đau; chức năng Từ Mẫu của Mẹ sẽ nằm trong bóng tối và sự đau xót. Đặc biệt, dưới chân thánh giá, nhờ lòng tin, Mẹ chia sẻ vào mầu hiệm kinh hoàng của sự tự hạ. Có lẽ đó là sự tự hạ (kénosis) sâu xa nhất của đức tin trong lịch sử loài người. Nhờ đức tin, Mẹ Maria tham dự vào cái chết cứu độ của Con mình; nhưng khác với đức tin của các môn đệ đang chạy trốn, đức tin của Mẹ thật chói ngời. Qua thập giá, Đức Giêsu đã chứng thực cách dứt khoát trên đồi Calvê rằng Người là “dấu hiệu bị người đời chống báng” như ông Simeon đã báo trước. Đồng thời, ở nơi đó những lời nói về Mẹ cũng thành tựu: “Phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu lòng Bà”.

Cũng như Đức Kitô đã chấp nhận chịu thử thách đau khổ không phải do tội của Người, mà là vì gánh lấy tội thế gian, Mẹ thánh thiện đã chịu đau khổ nhiều khi dâng lên Chúa Cha sự đau khổ của Đức Kitô và sự đau khổ của chính mình như Mẹ của Đấng Cứu Thế. Mẹ thông hiệp đầy đủ vào hy tế của Con trong giai đoạn có tính cách lịch sử của nó. Sự đau khổ của Con Thiên Chúa thì vô cùng và sự đau khổ của Mẹ cũng thật lớn lao.

 

Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã trở thành trẻ thơ cho người ta nâng niu và ôm ẵm. Chúa đã cảm nhận tình yêu chia sẻ của con người. Xin cho chúng con biết mở rộng vòng tay đón nhận và tôn trọng mọi người, nhất là các trẻ thơ vô tội. Xin cũng giúp chúng con biết noi gương Mẹ Maria mà cộng tác với Chúa trong việc cứu độ nhân trần. Amen.

 

 

Ngày 30 tháng 12

NGÀY VI TRONG TUẦN BÁT NHẬT GIÁNG SINH

 

+ BÀI TIN MỪNG: Lc 2, 36-40

Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là An-na, con ông Pơ-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.

Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê. Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.

 

+ SUY NIỆM

Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục câu chuyện Mẹ Maria và thánh Giuse dâng Hài Nhi Giêsu cho Thiên Chúa. Sau lời tiên tri và bài ca tụng (Nunc Dimitis) của cụ già Simêon, thì xuất hiện thêm nữ ngôn sứ Anna là một goá phụ 84 tuổi, ngày đêm đến đền thờ để cầu nguyện phụng sự Thiên Chúa. Hôm nay bà Anna cũng đến đền thờ, gặp thấy việc dâng Hài Nhi Giêsu, bà đã chúc tụng Chúa và nói tiên tri về Người cho những ai trông chờ ơn cứu độ.

Qua câu chuyện mà bài Tin Mừng kể lại, chúng ta tìm thấy những ý suy niệm sau đây:

 

* Ai sống thánh thiện và khao khát Chúa thì Chúa sẽ cho gặp.

Ông Simêon và bà Anna tượng trưng cho lòng mong đợi của những kẻ công chính, mà trong suốt cuộc đời mình đã sống tuân giữ lề luật Chúa, mong mỏi và hy vọng Chúa can thiệp cứu độ của thời cánh chung.

Trẻ Giêsu là trung tâm điểm của tất cả vũ trụ vạn vật. Thiên Chúa vĩ đại trở nên bé nhỏ trong vòng tay âu yếm của những kẻ tin. Cũng như cụ già Simêon, nữ ngôn sứ Anna ngày đêm ăn chay cầu nguyện, và bà đã được gặp Chúa và chúc tụng Người.

Thật vậy, Chúa Kitô trở nên niềm hy vọng và trông cậy cho tất cả mọi tạo vật. Người là sự sống và là sự sống lại viên mãn. Tất cả những ai tin vào Người, sẽ được ánh sáng ban sự sống. Những ai tiếp rước Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật.

Bà Anna là hình ảnh đặc thù “người nghèo của Yavê”, là những con người không có nguồn tài nguyên nào khác hơn là lòng tin cậy và hy vọng vào Thiên Chúa và là biểu thị nói lên tâm hồn đích thực của dân Chúa, tất cả hy vọng của Israel vào Đấng Cứu Thế và chỉ có gia đình mình là chính Thiên Chúa.

Bà Anna là người góa bụa và kém may mắn. Thế nhưng, tính cách goá bụa và hiếm hoi con cái của bà giờ đây không còn là một điều tủi nhục nữa, nhưng các giá trị của cuộc sống hoàn toàn dâng hiến mình để phục vụ Chúa và cộng đồng dân Chúa trong Đền Thờ, với lời cầu nguyện không ngừng, giờ đây được Chúa cho nếm trước hạnh phúc hân hoan mà Người sẽ dành cho bà: đôi tay của bà chưa bao giờ được diễm phúc ẵm lấy đứa con của mình, giờ đây bên Mẹ Maria bà được ôm ấp Con Thiên Chúa. Chúa là gia đình của bà, nhà của Thiên Chúa là ngôi nhà duy nhứt của bà, sống thân tình với Thiên Chúa là cuộc sống mong đợi và là niềm an ủi thực sự của bà.

Như thế, qua hình ảnh của bà Anna, cho chúng ta một điều chắc chắn, là muốn được gặp Chúa và được biến đổi đời sống, con người cần có một đời sống thánh thiện và khao khát thật sự.

 

* Muốn con cái lớn lên trong ơn nghĩa thánh, cha mẹ cần biết dâng con cho Chúa.

Tin Mừng kể sau sự kiện được cha mẹ dâng mình cho Thiên Chúa, trẻ Giêsu lớn lên đầy khôn ngoan và trong ơn nghĩa Chúa.

Trong gia đình Thánh Gia, mặc dù là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, Chúa Giê-su vẫn hoàn toàn chu toàn bổn phận với Chúa Cha trong tư cách là Con Thiên Chúa (x. Lc 2,49) và chu toàn bổn phận là con trong một gia đình khi sống đời khiêm hạ và hằng vâng phục Mẹ Ma-ri-a và thánh Giu-se (x. Lc 2,51). Người ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa (x. Lc 2,40).

Như vậy, noi gương Chúa Giê-su, trong phận làm con, chúng ta có bổn phận hiếu kính cha mẹ mình. Sự hiếu kính đó không chỉ là điều hợp với lẽ phải, hợp với khao khát chính đáng của con người, nhưng còn là điều đẹp ý Chúa. Bởi lẽ Thiên Chúa muốn con cái thờ cha kính mẹ (x. Đnl 5,16). Bởi lòng hiếu thảo của con cái là quà tặng đẹp nhất dâng cho cha mẹ và được Chúa chúc lành.

Cũng vậy, các bậc làm cha làm mẹ hãy biết dâng con mình cho Thiên Chúa (dâng ở đây không có nghĩa là đi tu), nhưng là phải biết ký thác cho Chúa, xin Chúa soi sáng, ban sức mạnh và hướng dẫn con cái biết sống đẹp lòng Chúa và có ích cho Giáo Hội cũng như xã hội.

 

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống thánh thiện và khao khát Chúa thực sự, để được Chúa viếng thăm, cho gặp và biến đổi, hầu chúng con ngày một lớn lên trong ơn nghĩa Chúa. Amen.

 

 Hiền Lâm.

Thiết kế Web : Châu Á