Đan Viện Khiết Tâm Phước Lý

Liệu sẽ có thêm một cuộc phân chia đau lòng trong Giáo hội Công giáo?

Những cuộc phân chia trong giáo hội Kitô đã không đơn thuần bắt nguồn từ các bất đồng thần học, nhưng đã có những nguyên nhân văn hóa, chính trị, địa phương (cách biệt địa lý) và nhất là sự bất đồng ý kiến về quyền bính của Ðức Giáo Hoàng. Ở một khía cạnh nào đó, những cuộc phân chia này đã thúc đẩy các giáo hội trưởng thành và cố gắng hơn trong công cuộc truyền giáo.

 

Tháng 3 năm nay, nhiều Giám Mục của Giáo hội Đức Quốc đã tuyên bố rằng họ sẽ thành lập một tiến trình “công đồng” có tính cách bắt buộc (binding synodal process), để đối phó với vấn đề xâm phạm tính dục của một số giáo sĩ.

 

Thoạt tiên, những vấn đề sẽ được thảo luận là việc độc thân của linh mục, giáo huấn của giáo hội (GH) về luân lý tính dục và quyền lực của các giáo sĩ. Nhưng sau đó, do áp lực của một số phe nhóm, các giám mục đã thêm một điểm thảo luận nữa là: Phụ nữ trong sứ vụ (ministry) của Giáo hội.

 

Tuy nhiên, không phải toàn bộ Giáo hội Đức đã cùng đồng ý với tiến trình này.

 

Như ĐHY Woelki của tổng giáo phận Cologne đã cảnh cáo rằng con đường nguy hiểm của “công đồng” đó đang đưa đến một ngã rẽ phân chia, và chúng ta, nếu điều tồi tệ nhất xảy ra, có thể sẽ mất đi sự thông công với GH hoàn vũ và trở nên một “Đức Giáo.” Ngài còn thêm, tiến trình công đồng đó cũng có thể đưa đến sự phân chia ngay trong lòng GH Đức.

 

Một giáo dân, Thomas Sternberg, là chủ tịch một nhóm tự xưng là Ủy Ban Trung Ương của những người Công Giáo Đức (Central Committee of German Catholic (ZDK) đã lên tiếng bất đồng với ĐHY Woelki.

 

Người đứng đầu của phong trào muốn có “công đồng” này, Hồng Y Reinhard Marx, cũng tự bênh đỡ rằng “truyền thống và cải tổ không đối ngược nhau.” Cũng nên biết rằng chính vị Hồng Y này đã muốn cho phép giáo dân giảng trong các thánh lễ.

 

Tuần này, một nhóm phụ nữ cải cách có tên “Maria 2.0” tuyên bố rằng họ sẽ không tham gia tiến trình của “công đồng.” Điều này sẽ là một thiệt thòi không nhỏ cho những người chủ trương cái gọi là “công đồng” đó.

 

Chuyện thứ hai, sau chuyến tông du đến các nước Mozambique, Mauritius và Madagascar ở Châu Phi, báo chí đã hỏi Đức Giáo Hoàng Phanxicô rằng ngài có lo ngại về nguy cơ của một cuộc phân chia khác sẽ đến từ nước Hoa Kỳ không? Ngài đã trả lời rằng: “Tôi không sợ sự phân chia, nhưng tôi cầu nguyện xin cho giáo hội tránh được điều đó vì đời sống tinh thần của nhiều người sẽ bị đe dọa.”

 

Khác với giáo hội Đức, xem ra như muốn đối thoại với Tòa Thánh về những vấn đề được coi là “cấp tiến”, một số thành phần ở Mỹ theo khuynh hướng bảo thủ lại cho rằng ĐGH đã đi quá xa trong các lãnh vực xã hội, di dân và biến đổi thời tiết. Ngài đã nói rằng những người đó đang sử dụng một hệ tư tưởng cứng nhắc (rigid ideology), đã để tư tưởng chính trị xâm nhập vào giáo điều. “Khi anh thấy các Kitô hữu, giám mục, linh mục, là những người cứng nhắc thì đàng sau là những vấn đề và cách diễn giải Kinh thánh không lành mạnh.”

 

Sự ly giáo (Schism) hay phân chia trong Giáo Hội Công Giáo không phải là điều mới lạ vì thực ra đã có đến ba cuộc đại ly giáo từng xảy ra.

 

Chúng ta sẽ đi ngược lại 2,000 năm lịch sử của giáo hội Kitô, để thấy rằng các biến cố trọng đại nhất, hầu như đã xảy ra cứ sau mỗi 500 năm hay 5 thế kỷ.

 

A. THẾ KỶ THỨ V: GIÁO HỘI SEMITIC

 

Sau Công Ðồng Chalcedon năm 451, một số Giáo hội Kitô ở Trung Ðông và Bắc Phi Châu như Armenia, Persia, Syria, Egypt và Ethiopia đã từ chối những huấn dụ về Tín Lý của Công Ðồng. Tín lý đó dạy rằng Ðức Kitô là Chúa và là Người thật (Gioan 1:1-14). Họ đã tự tách rời khỏi hai trung tâm chính của Kitô giáo là Constantinople và Roma, để thành lập giáo hội “Tiền Công Ðồng Chalcedon” hay là các giáo hội Semitic. Sự phân chia này đã làm Kitô giáo mất hẳn một miền rộng lớn thuộc Ðông và Nam Ðịa Trung Hải. Tuy đã có lý do chính trị và địa phương liên hệ trong quyết định nói trên, nhưng sự phân chia đã thực sự làm các nguồn tư tưởng thần học của Tây Phương mất thăng bằng và nghiêng hẳn về phía các nguồn tư tưởng Hi Lạp (Greece). Những giáo hội Semitic hiện vẫn nay còn tồn tại, chạy dài từ miền Tây Ấn Ðộ đến Bắc Phi Châu và lên tới miền Nam nước Nga với trên 10 triệu Kitô hữu. Ở Ai-cập (Egypt) giáo hội này được gọi là Coptic, là giáo hội của người Ai-cập). Gần đây, một số trong những giáo hội này đã trở lại, hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo Roma.

 

B. THẾ KỶ XI: GIÁO HỘI CHÍNH THỐNG ĐÔNG PHƯƠNG (CONSTANTINOPLE)

 

Sau nhiều năm rạn nứt giữa Ðông và Tây, giữa những giáo hội nói tiếng Hi Lạp và các giáo hội dùng tiếng La Tinh, năm 1045, sự gì người ta e rằng phải đến, đã đến. Ðức Hồng Y Humbert đã đọc bản án truất phép thông công toàn thể các giáo hội Ðông Phương (Orthodox, trung tâm là Constantinople, ngày nay là thành phố Istanbul của Turkey). Ðể đáp lại, Thượng Phụ Michael Cerularius và công đồng của ông cũng lên án phạt các giáo hội Tây Phương (Roma).

 

Ðã có những nguyên do chính đưa đến sự phân chia này.

 

1. Về chính trị: Kể từ khi có các cuộc xâm lăng của dân Bắc Âu, đến việc thành lập đế quốc Roma, việc đội vương miện cho vua Charlemagne của Pháp, đã làm cho Ðông Phương bất bình. Ðến khi vua Otto I (Đức) chiếm thành Roma năm 962 và áp đảo Ðức Giáo Hoàng, thì các giáo hội Ðông Phương không còn hoàn toàn thần phục ÐGH nữa.

 

2. Về văn hóa: Tây Phương đã bị ảnh hưởng sự tục hóa của dân man di (Barbarians, BắcÂu) và chính họ cũng đã muốn có một nền văn hóa riêng, thay vì phải chấp nhận nền văn hóa “thuộc địa” của Hi Lạp. Lối thực hành trong đời sống hàng ngày cũng thấy có những dị biệt. Thí dụ: các LM Ðông Phương để râu dài, còn những LM ở Tây Phương lại cạo nhẵn. Ðông Phương dùng bánh có men trong phép Thánh Thể, trong khi Tây Phương chỉ dùng bánh không men. Từ đó đã nảy sinh thêm những nghi kỵ và đưa đến sự bất tín lẫn nhau.

 

3. Về Thần Học: Ðông Phương thiên về chiêm niệm, suy gẫm những mầu nhiệm của Chúa qua sự mạc khải của Ngôi Con trong mầu nhiệm nhân bản của Giáo hội. Họ cũng phát triển khoa thần học về Thiên Chúa Ba Ngôi (Holy Trinity) và môn Kitô học (Christology). Trong khi đó, Tây Phương đã đi hẳn về phần nổi bề ngoài, chú trọng nhiều đến ý nghĩa của mầu nhiệm cứu chuộc, về đời sống trong Giáo hội và đời sống bí tích. Giáo hội là gì? Thế nào là ân sủng? Đó là những vấn nạn đã được giáo hội Tây Phương tìm cách trả lời.

 

Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất trong sự phân chia này, cũng như các cuộc đại ly giáo khác, là sự bất đồng về quyền bính của Ðức Giáo Hoàng. Ðối với Tây Phương, ÐGH là người kế vị của thánh Phêrô, cai quản toàn giáo hội, có quyền tuyệt đối. Trong khi đó, Ðông Phương chỉ coi chức giáo hoàng (Giám Mục thành Roma) như giám mục của một giáo phận, đồng thời điều hợp các giáo hội khác của giáo hội hoàn vũ như một vị chủ tịch của một liên đoàn ái hữu. Như vậy, Ngài không có quyền tuyệt đối.

 

C. THẾ KỶ XVI: SỰ PHÂN LY CỦA GIÁO HỘI TÂY PHƯƠNG

 

Sự phân chia lần này đã ảnh hưởng đến tận nền móng của Giáo Hội Công Giáo. Từ bên ngoài, các quốc gia chống đối lẫn nhau, đến bên trong các cộng đồng địa phương cũng có người theo phe này kẻ theo phái khác. Khởi đi từ đêm 30 tháng 10 năm 1517, khi Martin Luther dán 95 tiểu án chống giáo hội, nói chung; và lề lối ban các ơn đại xá, tiểu xá, nói riêng. Ông Luther đã cho rằng con người không thể “mua” ơn tha tội của Chúa bằng các việc đền tội, nhưng con người được trở nên công chính do ơn sủng đến từ niềm tin vào Ðức Kitô. Ðáng tiếc thay, sự chống đối đơn thuần này đã được một số lãnh chúa ở Ðức ủng hộ, vì lúc ấy giáo hội đang có nhiều đất đai ở vùng này, nếu ủng hộ Luther, họ sẽ chiếm được số đất đai đó. Một vài người khác như John Calvin ở Pháp và Zwingli ở Thụy Sĩ, cũng trình bày những tư tưởng thần học của họ và từ chối quyền bính của Ðức Giáo Hoàng ở Roma (ảnh hưởng từ cuộc phân chia Ðông - Tây). Trong khi đó, Giáo Hội Công Giáo Roma đã tung ra nền thần học chống lại các thần học cải cách (Counter-Reformation Theology) và loại trừ tất cả những ai không tuân phục quyền bính của ÐGH.

 

Cũng nên nhắc thêm về trường hợp của Anh Giáo. Sự thoát ly của giáo hội này đã không gây ra bởi các lý do thần học hoặc văn hóa, nhưng chỉ vì vua Henry VIII muốn ly dị bà vợ chính thức, Catherine of Aragon, (bà này đã không thể sinh con trai cho ông) để cưới bà vợ lẽ, Anne Boleyn. Dĩ nhiên là ÐGH Clement VII đã không cho phép, nên năm 1534, ông ta đã đưa cả nước Anh ly khai Giáo Hội Công Giáo Roma. Henry đã lần lượt cưới 6 người vợ, 2 trong số các bà ấy đã bi Henry ra lệnh chém đầu, trong đó có Anne Boleyn. Tuy nhiên, qua những cuộc bách đạo, vẫn còn rất nhiều tín hữu người nước Anh, trung kiên với Giáo Hội Công Giáo Roma và dạy dỗ con cháu giữ vững niềm tin cho đến ngày nay.

 

Những người theo Luther, Calvin và Zwingli đã tiếp tục các giáo hội Tin Lành, hay Thệ Phản (Protestants). Thế rồi,vì không có một hệ thống tổ chức chặt chẽ, nên sự phân chia trong chính hàng ngũ của họ vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Hiện có trên 300 giáo phái Tin Lành khác nhau với một tổng số khoảng 400 trăm triệu Kitô hữu trên thế giới.

 

Bỏ qua chuyện buồn phân chia, chúng ta có thể nhìn thấy những điểm tích cực khởi đi từ sự phân ly này. Ðó là dấu hiệu kết thúc thời Trung Cổ, và nền văn minh Tây Phương đã tiến vào thời Phục Hưng (Renaissance). Con người đã thay đổi toàn diện trong thời kỳ này: từ hành vi, tư tưởng đến cảm xúc... Tất cả đã được diễn đạt qua triết học và nghệ thuật. Sự thành công của khoa học và các cuộc thám hiểm lại càng làm gia tăng các thay đổi. Tuy nhiên, cuộc phục hưng cũng đưa con người trở lại với những gia sản cổ truyền của mình.

 

Đến nay, lại qua thêm 500 năm nữa, con người đã và đang đi vào những năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên kỷ thứ ba, thiên kỷ của những năm 2000. Chúng ta đã đi qua những mốc chính trong dòng lịch sử của giáo hội. Ðiều đó có giúp chúng ta hiểu biết hơn về hiện tại không? Nhất là chúng ta đã bước vào một chu kỳ mới của mỗi 5 thế kỷ? Đã ba lần bị phân chia, liệu giáo hội có bị xâu xé thêm lần nữa? Chuyện gì đã và đang xảy đến cho giáo hội và thế giới hôm nay?

 

Những cuộc phân chia trong giáo hội Kitô đã không đơn thuần bắt nguồn từ các bất đồng thần học, nhưng đã có những nguyên nhân văn hóa, chính trị, địa phương (cách biệt địa lý) và nhất là sự bất đồng ý kiến về quyền bính của Ðức Giáo Hoàng. Ở một khía cạnh nào đó, những cuộc phân chia này đã thúc đẩy các giáo hội trưởng thành và cố gắng hơn trong công cuộc truyền giáo.

 

Nếu cách biệt địa lý đã là một trong những nguyên nhân đã đưa những trung tâm văn hóa đến chỗ tự tạo thế lực để tách rời khỏi Giáo Hội Mẹ, như các giáo hội Trung Ðông và Ðông Phương. Trong hiện tại, Giáo Hội Công Giáo đang có ba trung tâm văn hóa chính: Châu Âu, Bắc Mỹ (Hoa Kỳ và Canada), và Châu Mỹ La Tinh (các miền Trung và Nam Châu Mỹ.) Ở Châu Âu và Bắc Mỹ đang có những phong trào đòi quyền tự do qúa lố, mà mục đích chỉ nhằm thỏa mãn những đòi hỏi của xác thịt hoặc trần tục hóa Giáo Hội, một mầu nhiệm bất biến của Ơn Cứu Chuộc. Trong khi ở Châu Mỹ La Tinh, phong trào Thần Học Giải Phóng, đi ngược với giáo huấn chân chính của Kinh Thánh, vẫn đang âm ỷ, chờ cơ hội bùng dậy.

 

Tuy nhiên, những áng mây mù nói trên đã và đang được Chúa Thánh Linh xóa tan qua Hội Thánh cùng Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ĐGH Bênêdictô XVI và ĐGH đương nhiệm Phanxicô. Các ngài đã đến tận những địa phương để sửa đổi các sai lầm này cũng như tỏ mối quan tâm ưu ái của Giáo Hội Mẹ đối với đàn con ở khắp nơi.

 

Ở thời đại mà nhân loại đã có khả năng đưa người và phi thuyền đến các hành tinh khác, thiết tưởng người Kitô hữu cũng cần có cái nhìn tinh tế hơn, rộng lượng hơn trước những biến cố đã, đang cũng như có thể sẽ xảy ra trong giáo hội. Ðôi khi chính những bất hạnh và tử đạo hôm nay, sẽ trở thành lạc phúc và triều thiên vinh hiển mai ngày. Bình tĩnh nhận định các biến cố và tin tưởng vào Ơn Chúa Quan Phòng với một tinh thần lạc quan, người ta sẽ thấy dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm những giải đáp và thái độ cần phải có trong mọi hoàn cảnh của đời sống.

 

 _________________________________________________

 

Lm. Phaolô Nguyễn Văn Tùng – Vietcatholicnews, 10.10.2019

 

Thiết kế Web : Châu Á