Bài giảng

NỘI SAN KHÁT VỌNG 17: "NGÔI LỜI ĐÃ LÀM NGƯỜI"

Với chủ đề của cuốn Nội San Khát Vọng 17: „Ngôi Lời đã làm người“, anh em Tập Viện suy tư, chiêm nghiệm về „Ngôi Lời đã làm người“, nhưng Ngài là ai? Ngài làm người và ở giữa chúng ta để làm gì? Sứ mạng của Ngài khi đến trần gian là gì, và con người được gì và có bổn phận nào khi đón mừng Ngài đến?

 

 

LỜI NGỎ

 

Quý độc giả thân mến!

 

Hàng năm, lễ Giáng Sinh, sự kiện có tính chất hoàn vũ, được mọi người chờ đợi, chào đón, làm cho muôn người vui mừng, phấn khởi. Vì đây là biến cố kỷ niệm giây phút Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, giáng thế, đi vào lịch sử loài người; Ngài hiện diện giữa cuộc đời, chia sẻ phận người và đặc biệt để cứu đời.

 

Hòa chung niềm vui với thế giới, cùng đón Con Chúa giáng trần, như thường lệ, Tập Viện Phước Lý ra mắt cuốn „Nội San Khát Vọng“ như một bước chuẩn bị để chào đón Ngôi Lời Thiên Chúa hạ sinh. Với chủ đề của cuốn Nội San Khát Vọng 17: „Ngôi Lời đã làm người“, anh em Tập Viện suy tư, chiêm nghiệm về „Ngôi Lời đã làm người“, nhưng Ngài là ai? Ngài làm người và ở giữa chúng ta để làm gì? Sứ mạng của Ngài khi đến trần gian là gì, và con người được gì và có bổn phận nào khi đón mừng Ngài đến?

 

Ngoài ra, những suy tư, tâm tình, cảm nghiệm...về Giáng Sinh được diễn tả qua những trang viết của các cá nhân. Những trang viết này tạo cho cuốn Nội San thêm phần phong phú, đồng thời nói lên tâm tình của anh em trẻ với Hài Nhi Giêsu, là Thiên Chúa, là Hoàng Tử hòa bình, đem đến cho mọi tâm hồn niềm vui, sự bình an và ơn cứu độ.

 

Ban biên tập cám ơn tất cả anh em đã cố gắng đóng góp bài viết để cuốn Nội San này được hình thành và ra mắt độc giả. Sau hết, xin chân thành cám ơn Quý độc giả và kính chúc mọi người một mùa Giáng Sinh tràn đầy niềm vui, ơn bình an và ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng Emmanuel - Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

 

Ban Biên Tập

 

 

 

 

 

 

 

ĐỨC GIÊSU KITÔ - NGÔI LỜI THIÊN CHÚA

 

Lam Châu

 

Đọc bốn Tin Mừng, chúng ta nhận thấy, mỗi tác giả đều bắt đầu Phúc Âm với văn phong và giới thiệu Đức Giêsu Kitô theo cách của riêng mình. Với bước chuyển tiếp từ Cựu Ước, Matthêu trình bày Đức Giêsu Kitô là con vua David, con cháu tổ phụ Abraham (Mt 1,1-17). Marco, trái lại, giới thiệu trực tiếp: Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (Mc 1,1). Luca bắt đầu tác phẩm với lời tựa, sau khi đã cẩn thận tra cứu theo cách mà các tác giả thời cổ thường làm (Lc 1,3). Ngài giới thiệu tên Đức Giêsu lần đầu ở Lc 1,31 và trong Lc 2,11, tác giả cho biết Đức Giêsu chính là Đấng được xức dầu, là Đấng Kitô Đức Chúa. Riêng Gioan, trước khi gọi tên Đức Giêsu Kitô ở Ga 1,17, thì trong Ga 1,1-13 đã cho chúng ta biết Ngài là ai, đến từ đâu, đến để làm gì, và những câu cuối của Lời Tựa (Ga 1,14-18), tác giả mô tả hình thức và nội dung cùng những điểm liên quan đến biến cố nhập thể và giáng thế của Đức Giêsu Kitô[1] - Ngôi Lời Thiên Chúa.

 

1. Đức Giêsu Kitô - Ngôi Lời Thiên Chúa

 

Tác giả Tin mừng thứ IV bắt đầu với trình thuật về Đức Giêsu - Ngôi Lời Thiên Chúa -không mang tính chất một Đức Giêsu lịch sử[2], nhưng ngài dẫn chúng ta đến điểm khởi đầu, điều đã được nói đến trong sách Sáng Thế (x. St 1,1). Tuy nhiên, đây không phải là khởi đầu thời gian của thế giới, nhưng là khởi đầu tuyệt đối, sự vĩnh cửu của Thiên Chúa, mà từ đó Ngôi Lời phát xuất, đến với thế giới, trở thành người phàm và „cắm lều“ giữa nhân loại.

 

Khi nói đến điểm khởi đầu, nơi Ngôi Lời xuất phát, Gioan, tác giả tin mừng, muốn nhấn mạnh thần tính và sự tiền hữu của Ngôi Lời, đồng thời đề cập đến vai trò của Ngôi Lời trong việc sáng tạo: „Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa [...] Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành [...] Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta“ (Ga 1,1-14). Như thế, Ngôi Lời, là Đức Giêsu đã hiện hữu ngay từ đầu nơi Thiên Chúa, và chính Ngài đã là Thiên Chúa. Ngài đã là Lời sáng tạo, trong Lời ấy, mọi sự đã được tạo thành. Từ Cựu Ước, chính Ngài đã tự biểu lộ cách kín đáo dưới các dáng vẻ của Lời tác động và mạc khải[3]. Nhưng vào thời sau hết, Ngôi Lời đã công khai đi vào lịch sử nhân loại bằng cách trở thành người phàm (Ga 1,14; Dt 1,1tt). Giờ là lúc Ngài trở nên đối tượng kinh nghiệm cụ thể cho con người (1 Ga 1,1tt), đến nỗi chúng tôi đã thấy vinh quang của Ngài (Ga 1,14).

 

Ngôi Lời làm người, Ngài cắm lều giữa chúng ta. Con người Giêsu là „sự cắm lều“ của Ngôi Lời vĩnh cửu trong trần thế. Xác thể của Đức Giêsu là sự hiện hữu nhân tính của Ngài, là Lều của Lời[4]. Khi xưa, Thiên Chúa „cắm lều“ (Tv 76,3) và hiện diện giữa dân Người, là hình ảnh tiên trưng, thì nay có thể nói, Đức Giêsu - Ngôi Lời Thiên Chúa, cư ngụ giữa chúng ta, Ngài chính là lều Hội ngộ, là Lều thánh, hiện diện giữa lịch sử nhân loại, là Đấng Emmanuel - Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Is 7,14; Mt 1,23).

 

Như vậy, nguồn gốc của Đức Giêsu - Ngôi Lời nhập thể, xuất xứ của Ngài, cũng chính là „khởi điểm“, nghĩa là nguyên lý đầu tiên, nơi mà tất cả đều xuất phát từ đó, vì „nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành“. Ngôi Lời đến từ Thiên Chúa. Ngài chính là Thiên Chúa, là khởi điểm của vạn vật. „Khởi điểm“ đã đến thế giới, khai mở một cách thức hiện sinh nhân bản mới[5]. Vì „còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa“ (Ga 1,12-13).

 

Ai đón nhận và tin vào Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa ban cho họ một cuộc hạ sinh mới, họ bước vào một nguồn cội đích thực và mới mẻ, tức là nguồn gốc của Đức Giêsu Kitô, họ lãnh nhận nguồn cội đó làm nguồn cội của mình[6], và nhờ niềm tin vào Đức Giêsu, họ được Thiên Chúa sinh ra. Ai tin vào Đức Giêsu, Ngài còn mạc khải cho họ nhận biết Chúa Cha: „Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi“ (Ga 12,44). Cùng ý tưởng này, Ngài nói tiếp: „Ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy“ (Ga 13,20b), vì Đức Giêsu và Chúa Cha là một (Ga 10,30).

 

2. Đức Giêsu - Ngôi Lời Thiên Chúa và Chúa Cha là một

 

Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Ngài ra, không có Thiên Chúa nào khác nữa (x. Mc 12,29; Đnl 4,35.39). Ngài là Đấng khởi nguyên và tận cùng (Is 44,6). Vì thế, Ngài đòi buộc dân Israel: „Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta“ (Xh 20,3). Bởi vì, „chư thần các nước thảy đều hư ảo“ (Tv 96,5).

 

Thiên Chúa là Đấng duy nhất, nhưng có ba ngôi: Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu - Ngôi Lời nhập thể, là Con và Chúa Thánh Thần. Mầu nhiệm ba ngôi được Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta, khi Ngài sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng: „Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần“ (Mt 28,19).

 

Tuy nhiên, trong Đức Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa biểu lộ trọn vẹn trong thân phận con người[7]: „Ngôi Lời đã trở nên người phàm“ (Ga 1,14). Giờ đây, Thiên Chúa trở nên hữu hình, con người có thể nghe, đụng chạm và tận mắt chứng kiến (1Ga 1,1), và nhờ niềm tin, họ nhận biết Ngài (x. Ga 6,69).

 

Như vậy, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài đồng bản tính với Chúa Cha, Ngài có cùng vinh quang với Chúa Cha và cho mình các phẩm tính như Chúa Cha[8]: „Tôi và Chúa Cha là một“ (Ga 10,30), vì thế, Ngài có thể nói: „Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha“ (Ga 14,9), hoặc „Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha“ (Ga 10,38). Do đó, Tông đồ Thomas, sau khi được diện kiến Đức Kitô phục sinh, đã thốt lên: „Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con“ (Ga 20,28).

 

Vì Đức Giêsu là Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha nên Ngài được nhận những tước hiệu và có quyền năng như Chúa Cha: Đấng sáng tạo (Is 40,28; Ga 1,3), Ánh sáng (Is 60,19-20; Ga 8,12), Mục tử tốt lành (Tv 23,1; Ga 10,11.14), Đấng khởi nguyên và tận cùng (Is 41,4; Kh 1,17), Đấng tha tội (Gr 31,34; Mc 2,5)... Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng qua mầu nhiệm tự hạ, vâng phục và chết trên thập tự, nên đã được Chúa Cha tôn vinh, đến nỗi mọi loài phải mở miệng tuyên xưng: „Đức Giêsu Kitô là Chúa“ (Pl 2,6-11).

 

Đọc tin mừng Gioan, chúng ta có thể nhận thấy, điểm cốt yếu Gioan muốn chuyển tải cho chúng ta chính là: „Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người“ (Ga 20,31). Trong Lời tựa của Tin mừng, tác giả cho chúng ta biết: „Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa“ (Ga 1,1). Và gần cuối sách Tin mừng, Thomas, đại diện cho các môn đệ của Đức Giêsu, đã tuyên xưng một đức tin chưa từng có[9]: „Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi“ (Ga 20,28). Như vậy, từ ngữ „khởi đầu“ trong Lời tựa đã loan báo về thiên tính của Đức Giêsu, mà trong suốt hành trình phúc âm, Gioan mời gọi độc giả của ngài đến với lời tuyên xưng như Thomas đã tuyên xưng: „Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi“ (Ga 20,28), nghĩa là tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, và Ngài chính là Thiên Chúa, được Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu chuộc nhân loại.

 

 

 

 

THIÊN CHÚA SAI CON CỦA NGƯỜI ĐẾN THẾ GIAN

 

                                                                                           Lớp Fatima

 

Khởi đi từ một tình yêu sung mãn và trào tràn nơi Thiên Chúa, muôn loài muôn vật đã được dựng nên một cách hết sức tốt đẹp. Trình thuật của sách Sáng Thế cũng đã minh định cho chúng ta sự thật này: “Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất” (St 1,1) cùng muôn vật trong đó, và Ngài thấy rằng “mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!” (St 1,31). Đó là một chân lý hiển nhiên về công trình tạo dựng của một Thiên Chúa đầy sáng tạo và quyền năng.

 

Vậy mà chẳng bao lâu sau, công trình được Thiên Chúa tạo dựng, đã xảy ra một thảm trạng. Thảm trạng này xuất hiện đã làm cho mọi sự thay đổi, không còn tốt lành như lúc khởi đầu, trở nên xấu xa và đầy nhơ uế. Vậy do đâu mà có sự thay đổi như thế, có phải là do Thiên Chúa làm không? Nếu không thì tại sao lại có sự thay đổi theo chiều hướng đó? Đâu là giải pháp tốt nhất để cứu vãn, nhằm giúp cho vạn vật được trở lại tình trạng tốt đẹp thuở ban đầu?...

 

Để giải đáp những vấn nạn này, người viết xin được phác hoạ qua hai điểm chính dưới đây:

- Thế gian bị tội lỗi xâm nhập và thống trị

- Con Thiên Chúa được sai đến thế gian

 

1. Thế gian bị tội lỗi xâm nhập và thống trị

 

Theo trình thuật từ sách Sáng Thế, chúng ta biết rằng, sau khi nguyên tổ Ađam - Eva phạm tội bất tuân đối với Thiên Chúa, tội đã thâm nhập vào trần gian. Từ đó vạn vật đã đổi thay, và sự đổi thay đối với con người là từ tình trạng hạnh phúc địa đàng sang một tình trạng bất hạnh, đau thương, khốn khổ…

 

1.1 Tình trạng đau thương của con người

 

Hậu quả mà tội lỗi đưa tới không phải là hạnh phúc nhưng là đau khổ, là đau thương và bất hạnh. Đó là điều tất nhiên mà con người phải gánh chịu khi phạm tội.

 

Quả vậy, khởi đầu lịch sử nhân loại, kể từ sau khi Nguyên Tổ phạm tội và sa ngã, một thực tế không thể chối từ đã xảy ra cho nhân loại, đó là “tội lỗi đã lan tràn khắp thế gian”, và điều này đồng nghĩa với việc thế gian đã bị tội lỗi xâm lăng và thống trị, nó gây nên khổ đau, và sự chết trong đó[10]. Thánh Phaolô khẳng định: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (Rm 5,12).

 

Vì tội Ađam đã phạm, mọi người đều bị liên luỵ và như thế phải chịu hậu quả hết sức bi đát, trước tiên là con người đã đánh mất sự tốt lành và thánh thiện nguyên thuỷ, song song với sự mất mát đó là bản tính của mình bị tổn thương, hướng chiều về tội lỗi, trở nên u mê, mất tự do, chịu cảnh nô lệ và đau khổ[11]. Cuối cùng chính tội lỗi là nguyên nhân chính yếu đưa đến sự diệt vong.

 

Trước tình trạng con người như thế, Thiên Chúa đã bỏ rơi con người rồi chăng? Nếu Người vẫn còn đoái thương và muốn cứu giúp con người thì hẳn Người phải có một kế hoạch nào đó?

 

1.2 Lời Thiên Chúa hứa với con người

 

Thiên Chúa hoàn toàn có lý do để bỏ rơi nhân loại khi họ xúc phạm đến Ngài, khi chính họ chối từ Ngài trước. Thế nhưng Ngài vẫn không bỏ rơi con người, vì Chúa xót thương hết mọi người, yêu thương hết vạn vật hiện hữu và không khinh ghét một thứ nào Ngài đã tạo dựng (x. Kn 11,23-25).

 

Bằng chứng là ngay sau khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã không để cho chúng ta mất hết niềm hy vọng vào tình thương, sự giải thoát của Ngài, nhưng đã ban lời hứa của Ngài để củng cố niềm tin và hy vọng cho chúng ta.

 

Lời hứa đầu tiên mà Thiên Chúa hứa ban cho chúng ta, nhờ vào một miêu duệ của người nữ, Chúa phán: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy, dòng giống nó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15).

 

Và không dừng lại ở lời hứa đó, Thiên Chúa lại tiếp tục thực hiện lời hứa với con người khi phán với tổ phụ Abraham rằng: “Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân tộc lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi…nhờ ngươi mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12,1-4).  Rồi qua ông Môse, Thiên Chúa lại lập với dân tộc Israel giao ước Sinai. Theo điều kiện của giao ước này, nếu Israel thực sự nghe tiếng Chúa và giữ giao ước của Ngài thì: “Giữa hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu của riêng ta. Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế, một dân thánh” (Xh 19,5-6). Lại nữa, với vua David, Chúa phán: “Đối với nó ta sẽ là Cha, đối với Ta, nó sẽ là con…Tình thương của ta sẽ không rời khỏi nó” (2Sm 7,14). Lời hứa với vua David là một hình ảnh tiên báo về Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Sai, Vị Cứu Tinh sẽ xuất hiện từ dòng dõi ông.

 

Tắt một lời: “Tất cả mọi giao ước Thiên Chúa đã kết ước với nhân loại sau tội Ađam xác nhận một chân lý rõ ràng Thiên Chúa muốn cứu độ nhân loại”[12]. Đó là niềm hy vọng sống động và hình ảnh tiên trưng cho tin vui trọng đại sẽ được thực hiện sau này, khi Chúa Cha sai Con của Người là Đức Giêsu Kitô đến với thế gian.

 

2. Con Thiên Chúa được sai đến với thế gian

 

Khi thời gian tới hồi viên mãn, nghĩa là sự bắt đầu của mầu nhiệm nhập thể và sự kết thúc thời gian chuẩn bị cho một giao ước mới được thiết lập bởi Đức Giêsu, Đấng sẽ thực hiện và hoàn tất giao ước giữa Thiên Chúa với con người[13]. Như lời thánh Gioan quả quyết: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian” (Ga 3,17a). Vậy Con Thiên Chúa được sai đi ở đây là ai? Và Người đến trần gian với sứ mệnh gì?...

 

2.1 Con Thiên Chúa - Đức Giêsu Kitô

 

Vào thời đã định từ trước, Thiên Chúa đã sai chính “Con Một của Ngài”, Người Con độc nhất vô song đến với nhân loại.

 

Con Thiên Chúa ở đây theo thánh Gioan không ai khác chính là Đức Giêsu, Ngôi Lời tiền hữu trong Thiên Chúa (Ga 1,1-2), Người đích thực là Con Thiên Chúa, là Đấng Kitô (Ga 20,31a), Người đích thực là Đấng Thiên Sai đã được loan báo từ trước qua các ngôn sứ, các tiên tri trong thời Cựu Ước. Ngài là Con Một của Chúa Cha nên đương nhiên được Cha yêu mến, và cả hai có một mối tương quan vô cùng chặt chẽ, đến nỗi Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30), “ai thấy Tôi là thấy Đấng đã sai tôi” (Ga 12,45), “ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Ga 13,20b).

 

Đối với nhân loại nói chung, qua việc mạc khải, Thiên Chúa cho chúng ta biết rằng, Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Đấng Kitô, nghĩa là “Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn”, được Thiên Chúa sai đi thực hiện sứ vụ cứu thế với ba tư cách chính đó là ngôn sứ, tư tế, quân vuơng[14].

 

Tuy nhiên, Đức Giêsu không chỉ là Con Thiên Chúa, Ngài cũng là một con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thật vậy, khi nhập thể làm người, Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta biết về mầu nhiệm của Đức Giêsu vừa là người thật và là Thiên Chúa thật. Với mầu nhiệm nhập thể làm người, dưới khía cạnh nhân tính của Chúa Giêsu, vốn là phương tiện hữu hiệu thiên tính Người dùng để thánh hoá con người[15], hay nói khác đi là để thực hiện công cuộc sứ mệnh cứu độ con người. Vậy sứ mệnh trọng yếu của Đức Giêsu Kitô là gì? Sứ mệnh đó được thực hiện như thế nào?

 

2.2 Sứ mệnh trọng yếu của Đức Giêsu Kitô

 

Đức Giêsu Kitô đến thế gian với một sứ mệnh vô cùng trọng đại, bởi vì Người mang trong mình tất cả mọi ý định, chương trình của Thiên Chúa Cha trao, và chính Người sẽ hoàn tất sứ mệnh đó chứ không phải một thụ tạo nào khác.

 

Tự bản thân, Chúa Giêsu là một quà tặng tuyệt vời từ sáng kiến về tình yêu của Thiên Chúa Cha cho nhân loại. Vì thế, Người đến không phải để kết án thế gian, càng không phải để trừng phạt con người tội lỗi, mà để thực thi sứ mệnh yêu thương của Thiên Chúa, đó là cứu độ và ban sự sống cho con người, không để con người phải chết. Bởi lẽ Đức Giêsu được trao cho quyền làm chủ trên sự sống và Người có quyền mang lại sự sống (x. Ga 5,21).

 

Đức Giêsu đến thế gian với sứ mệnh cứu độ mang một tầm vóc hoàn vũ, một tính chất phổ quát trên muôn loài. Người đến để cứu độ, để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, tức khỏi sự chết, để giao hoà chúng ta với Thiên Chúa: “Chính Người đã yêu thương chúng ta và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10), để chúng ta nhận biết tình yêu của Thiên Chúa: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9); để chúng ta được “thông phần vào bản tính của Thiên Chúa” (2Pr 1,4) “nhờ sự hiệp thông với Người”, đến nỗi “Người đã trở nên giống chúng ta để chúng ta trở thành như Người” (Thánh Irênê).

 

 Như thế sẽ có người tự hỏi: Án chết, sự hư mất đời đời là do đâu? Tuyệt nhiên, án chết không phải là do Thiên Chúa, nhưng là do con người. Thật thế, một khi con người khước từ Thiên Chúa, nghĩa là không tin nhận Đức Giêsu, Con Thiên Chúa sai đến thì chính họ tách rời khỏi sự sống và tự nhận lấy án chết, sự hư mất vậy. Chính Đức Giêsu đã nói rõ rằng: “Ta đến không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu thế gian” (Ga 12,47); “để tìm và cứu những gì đã hư mất” (Lc 19,10); hoặc “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Thật ra, Đức Giêsu có sứ mạng ban sự sống chứ Ngài không giết chết, Ngài không phải là đối tượng được sai đến thế gian để huỷ diệt, gieo rắc sự chết, vì điều đó đi ngược lại sứ mệnh cứu độ và đem lại sự sống cho con người[16].

 

2.3 Sự hoàn tất Lời Thiên Chúa hứa

 

Nhìn lại công trình sáng tạo và kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa, và càng suy tư, chiêm nghiệm, chúng ta càng thấy rõ sự quan phòng của Thiên Chúa trên muôn loài, muôn vật thật huyền nhiệm và lạ lùng thay! Trong sự quan phòng đó, Thiên Chúa đã biểu lộ cho chúng ta thấy rõ về bản thân Ngài, những phẩm chất của Ngài là sự khôn ngoan, chân thật, tốt lành, lòng nhân ái, bao dung và luôn chan chứa một tình yêu thương đối với những gì Ngài đã dựng nên, đặc biệt là đối với mỗi người chúng ta.

 

Điều đặc biệt của Thiên Chúa đã làm đối với mỗi người chúng ta, đó không chỉ là dựng nên chúng ta giống hình ảnh của Ngài, và ban cho ta quyền làm chủ vạn vật..., nhưng còn hơn thế nữa, như lời thánh Gioan quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16), ngay cả khi chúng ta còn là những tội nhân thù nghịch với Ngài, để đền tội thay cho chúng ta khỏi phải chết muôn đời (x. Rm 5,6.8). Và chúng ta đã nhận ra điều đó một cách đầy đủ và cụ thể qua Đức Giêsu Kitô, khi Ngài hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha để đến thế gian mặc lấy thân phận con người, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế, và Người lại còn vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết (x. Pl 2,7-11)). Như thế, qua mầu nhiệm nhập thể và mầu nhiệm vượt qua, Người đã hoàn tất thiên ý Chúa Cha. Như vậy, qua con người Giêsu, Thiên Chúa đã hoàn thành một cách trọn vẹn lời hứa cứu độ và kế hoạch yêu thương của Ngài dành cho con người.

 

Khi đã hoàn tất mọi sự và về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu cũng trao cho chúng ta một sứ mệnh quan trọng, khi nói: “Như Cha sai Thầy, Thầy cũng sai anh em…” (Ga 20, 21), “Anh em hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (Mt 28, 19). Như vậy, chính nhờ Chúa Giêsu mà mỗi người chúng ta cũng được mời gọi để tham gia vào sứ vụ của Chúa Kitô: Ngôn sứ, Tư tế, Vương đế. Đó cũng là sứ mạng cao quý mà Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hiện trong thời đại hôm nay.

 

Lời Kết

 

Nếu như việc con người phạm tội đã đánh mất đi sự tốt lành, thánh thiện và công chính ban đầu, làm mất đi sự hiệp thông và ơn nghĩa đối với Thiên Chúa, đồng thời bị rơi vào thảm trạng đau thương, sự hư mất đời đời, thì cũng không vì thế mà chúng ta phải tuyệt vọng. Thật ra, chúng ta vẫn còn niềm hy vọng vào điều kỳ diệu lớn lao mà Thiên Chúa hứa sẽ thực hiện cho chúng ta, bởi vì Người vốn giàu lòng thương xót, đầy tình yêu thương và sự trung tín đối với muôn loài Người đã dựng nên.

 

Sau khi Nguyên Tổ phạm tội, trước tiên Chúa hứa với người Eva, với tổ phụ Abraham, Môse, với vua David, và cuối cùng là sai Con Một yêu dấu của Ngài đến thế gian, như lời thánh Gioan tông đồ khẳng định: “Thiên Chúa sai Con của Người đến với thế gian” (Ga 3,17a), nghĩa là Chúa Cha đã ban Đức Giêsu Kitô cho nhân loại, đó thật sự là một hành động yêu thương tuyệt đỉnh mà Thiên Chúa đã làm. Mục đích của hành động ấy hẳn không phải để kết án con người sa ngã vì tội lỗi, nhưng là để giải thoát muôn loài khỏi ách thống trị của tội lỗi và khổ đau, của bóng đêm tử thần, để đem lại ơn cứu độ, sự tự do và hạnh phúc.

 

Quả thật, với niềm vui và hy vọng, tất cả chúng ta hãy hân hoan reo hò, đặc biệt là trong ngày của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa ngự đến. Và để cho niềm vui của chúng ta được tràn ngập tâm hồn và toàn thể đời sống của mình, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã hướng chúng ta đến gặp gỡ Chúa Giêsu, để được cứu độ: “Niềm vui của Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và đời sống của những người gặp gỡ Chúa Giêsu. Những người để cho mình được Người cứu độ được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn rầu, trống rỗng nội tâm và cô lập”. Như vậy, việc chúng ta đến gặp gỡ Chúa Giêsu, đón tiếp Ngài, tin nhận Ngài là Đấng được Chúa Cha sai đến thế gian chính là điều kiện cần thiết, để chúng ta nhận được dư tràn niềm vui và ơn cứu độ của Thiên Chúa ban.

 

  

 

 

HÔM NAY CHÚA LẠI ĐẾN

 

Vào mùa đông năm ấy

Gió lạnh căm từng đêm

Con Thiên Chúa hạ thế

Tuyết phủ đầy Bê-lem

 

Các mục đồng cất bước

Hối hả tới Bê-lem

Chiêm ngắm Đấng Cứu Độ

Trong Ấu Nhi hồn nhiên

 

Hôm nay Chúa lại đến

Trên khắp mọi nẻo đường

Chúa đem bình an xuống

Cho những người Chúa thương!

 

Con nguyện cầu cùng Chúa

Cho tất cả người nghèo

Được nhìn thấy sao lạ

Hướng đời mình bước theo…

 

M. Gioan Kim Khẩu

 

 

 

 

NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM VÀ CƯ NGỤ GIỮA CHÚNG TA

 

Lớp Gioan Phaolô II

 

Hằng năm, cứ mỗi dịp Giáng Sinh về, chúng ta lại được nhìn ngắm những hang đá được trang hoàng thật lung linh và lấp lánh. Tuy nhiên, một trong những ý nghĩa sâu xa mà các hang đá này muốn nhắm đến không gì khác hơn là cố diễn lại cho chúng ta một sự kiện đã xảy ra cách đây hơn hai ngàn năm: Vào một đêm khuya giá rét, một bé trai đã được sinh ra trong cảnh nghèo nàn. Người mẹ đã đặt em bé nằm trong một máng cỏ mà người ta dùng cho bò lừa ăn, bên cạnh có ông bố nuôi và vài mục đồng đến thăm viếng… Khung cảnh thật nghèo khó, lạnh lẽo… Em bé ấy là ai?

 

Chắc chắn sẽ không một ai có thể đoán nổi em bé này là ai, nếu không có lời chứng của các tông đồ và môn đệ, là những người đã được trông thấy Đức Giêsu chết, sống lại và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha! Trong những lời chứng về căn tính của Đức Giêsu, có câu nói sau đây của thánh Gioan tông đồ đã làm nhân loại phải ngạc nhiên từ hơn hai ngàn năm nay: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14).

 

 Vậy “Ngôi Lời” là ai?

 

“Ngôi Lời” theo tiếng Hy Lạp là “λόγος”. Logos có nghĩa là lời, là tiếng nói. Đặc biệt hơn nữa, đây còn là một từ thông dụng được sử dụng trong một ý nghĩa thuật ngữ như là một danh hiệu của Đức Kitô trong những tác phẩm của thánh Gioan[17]. Ngoài ra, Logos cũng là một từ mà người thời xưa thường dùng để mô tả nguồn gốc của vũ trụ vạn vật. Các triết gia Hy Lạp cho rằng, Logos là một thực thể vĩnh hằng, là nhân tố nguyên thủy, nguyên lý thần linh nằm trong vũ trụ, là linh hồn của vũ trụ, thấm nhập vào mọi sự. Cũng vậy, khi dùng thuật ngữ “Logos - Ngôi Lời”, thánh Gioan đã cho mọi người nhìn thấy nguồn gốc đích thực của Chúa Giêsu, Con Chúa Trời, Người chính là Thiên Chúa, là Đấng sáng tạo trời đất… sáng tạo con người: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,1-3).

 

Động từ “cư ngụ” mà thánh Gioan dùng có thể hiểu là: “cắm lều của mình”[18]. Theo nguyên nghĩa, tiếng Hy Lạp “ske-nô-o” trong câu Kinh Thánh trên có nghĩa là “dựng lều, cắm lều, ở trong lều”. Tuy nhiên, theo thời gian, hình ảnh cụ thể đó dần biến đi, động từ ấy mất dần nghĩa gốc, và cuối cùng chỉ còn nghĩa đơn sơ là “ở, cư ngụ”. Dù vậy, trong Kinh Thánh, từ ấy đã trở thành từ chuyên môn để chỉ việc Thiên Chúa ở giữa loài người. Vì thế, Tin Mừng theo thánh Gioan đã dùng từ ấy để nói về việc Ngôi Lời ở giữa loài người chúng ta. Tương đương với động từ “ske-nô-o” trong tiếng Hy Lạp, động từ “sâ-kan” trong tiếng Hípri, có nghĩa là “dựng lều, cắm lều, ở trong lều” cũng được dùng để chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Israel[19]. Vậy, việc Thiên Chúa “cắm lều giữa chúng ta” có nghĩa là gì?

 

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa ở giữa dân Người: Người hiện diện trong Lều Hội Ngộ, Người ở trong Đền Thờ (x. Xh 25,8; Ds 35,34; Tv 75,3), và Thiên Chúa, Đấng Khôn Ngoan còn ở trong Luật Môsê nữa (x. Hc 24,7-22; Br 3,36-44). Động từ “cắm lều” muốn nhắc lại việc Thiên Chúa ở giữa dân Người trên đường từ Ai Cập về Đất Hứa. Trong thời gian Xuất Hành ấy, con cái Israel sống trong lều như dân du mục. Thiên Chúa đã hứa cùng ông Môsê rằng Người sẽ cùng ở với dân, cùng với dân đi về Đất Hứa. Để giữ lời hứa và cũng là để nói lên sự hiện diện của Người giữa con cái Israel, Thiên Chúa đã truyền cho ông Môsê phải làm cho Người một cái lều, gọi là Lều Hội Ngộ, hay Nhà Tạm. Đó là nơi Người ngự giữa con cái Israel. Ngày khánh thành, Thiên Chúa cho Lều của Người tràn ngập những áng mây và vinh quang rực rỡ, để ra dấu cho dân biết Người hiện diện trong Lều. Thế là Thiên Chúa “cắm lều” giữa dân và “ở trong lều” với dân của Người.

 

Thế nhưng, trong Tân Ước, nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa ở giữa dân của Người cách gần gũi hơn nhiều: Người hiện diện bằng chính bản thân và một cách hữu hình bằng xương bằng thịt, chứ không bằng áng mây hay Lề Luật cách vô hình như xưa. Như vậy, khi dùng động từ đầy tính tượng hình là “cắm lều”, một nét đặc trưng của người Do Thái du mục, tác giả Tin Mừng Gioan muốn nói rằng Ngôi Lời nhập thể chỉ ở lại cách tạm thời dưới thế[20]. Nói cách khác, tác giả muốn cho thấy: nhân tính Đức Kitô là Lều mới, là Nhà Tạm mới của Giao Ước mới, nơi Thiên Chúa hiện diện, nơi vinh quang của Người tỏ hiện. Xưa, Thiên Chúa ngự ở Nhà Tạm giữa con cái Israel trong suốt thời gian dân đi qua sa mạc tiến về Đất Hứa; nay, Đức Kitô cũng ngự giữa lòng dân mới, đồng hành với họ trên đường dương thế hướng về Đất Hứa mới là Thiêng Đàng.

 

Lời loan báo của Tin Mừng dẫn chúng ta tới một quan niệm mới về Thiên Chúa: “Ngài không chỉ ở trên tầng cao xanh vời vợi, nhưng Thiên Chúa tối cao đã làm người”. Lời loan báo này không khỏi làm cho mọi thế hệ ngỡ ngàng, vì khái niệm một Thiên Chúa làm người vừa lạ tai vừa mâu thuẫn. Có lẽ nào Thiên Chúa là Đấng trời đất không thể nào chứa nổi lại mang xác phàm, với hình hài một con người như chúng ta: “yếu đuối, mỏng giòn, phải chịu mọi thứ giới hạn về không gian và thời gian, và giới hạn cuối cùng là sự chết”[21]. Ngài là một con người thực thụ, như bao con người khác sống trong kiếp nhân sinh, chỉ trừ tội lỗi: Người đã mệt mỏi bên bờ giếng vào lúc buổi trưa; giận dữ và ngạc nhiên vì sứ điệp cứu độ mình muốn chuyển tải không được đón nhận; đau buồn sợ hãi trước lúc bước vào cuộc khổ nạn; cô đơn kêu cứu trong khi hấp hối trên thập tự… Những tâm trạng ấy chứng minh cho thấy Thiên Chúa thực sự làm người như bao người chúng ta. Nếu thế, vì nguyên nhân gì mà “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14)?

 

Thánh Gioan đã nói: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8). Có lẽ không có định nghĩa nào về Thiên Chúa đầy đủ hơn định nghĩa mà Thánh Gioan đưa ra. Thiên Chúa là Tình Yêu và vì tình yêu mà Ngài đã xuống thế làm người và ở giữa chúng ta, để chúng ta cảm nhận và sống trong tình yêu của Ngài. Thiên Chúa làm người ư? Đó có phải là một huyền thoại? Đó có phải là một tưởng tượng hão huyền của Kitô giáo? Những người không tin vào điều này có lý để đặt câu hỏi, để nghi ngờ, để cười vì sự điên rồ này. Thế nhưng “cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của con người” (1Cr 1,25). Vậy nên, “Thiên Chúa đã làm người” thật điên rồ dưới mắt người đời, nhưng Ngài không thể làm khác, vì Ngài quá yêu con người và muốn con người sống trong ân phúc, sống trong tình phụ tử với Ngài và “những ai tin vào danh Người thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12). Tất cả cũng chỉ vì Ngài là Tình Yêu. Về điều này, thánh Irênê còn đi xa hơn: “Thiên Chúa làm người để con người được làm Thiên Chúa”. Trở nên Thiên Chúa đây nghĩa là gì? Đó chính là trở nên tình yêu như Ngài là Tình Yêu. Vâng, Thiên Chúa xuống thế làm người để trao ban tình yêu và mời gọi con người đáp lại tình yêu, đón nhận tình yêu và trở nên tình yêu. Chính vì vậy mà Khoa thần học Kitô giáo đã sớm nhận ra và tuyên tín: “Ngôi Lời là Con Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô”[22].

 

Có thể nói rằng: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14) là câu vĩ đại và độc nhất trong Tin Mừng[23]. Phải chăng, quà tặng vô giá mà Thiên Chúa muốn ban tặng nhân loại chính là việc cho Ngôi lời nhập thể, mang lấy thân phận mỏng dòn, yếu đuối của kiếp nhân sinh? Đúng vậy, Người đến để chia sẻ với con người, để đồng hành với con người trong mọi hoàn cảnh. Người đến để yêu thương, để gánh lấy tội lỗi của nhân loại và cuối cùng chấp nhận hy sinh thân mình vì nhân loại. Giáng Sinh về, chúng ta không chỉ kỷ niệm một biến cố quan trọng đã xảy ra trong lịch sử nhân loại cách đây hơn hai ngàn năm: biến cố “Ngôi Lời trở thành xác phàm và cư ngụ giữa lòng nhân loại”, mà còn là dịp để mỗi người chúng ta nhận ra chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa trong dòng lịch sử, trong chính cuộc đời của mỗi người!

 

 

 

CHÚA ĐÃ GIÁNG SINH

 

Đêm nay Chúa giáng trần

Mang phúc lộc thánh ân

Làm cho đời tươi thắm

Sưởi ấm cõi nhân trần.

 

Đêm nay Chúa ra đời

Niềm vui tỏa khắp nơi

Người ơi, mau mau đến        

Chiêm bái Con Chúa Trời.

 

Thật Chúa đã sinh ra

Trong đêm đông lạnh giá

Thành Bê-lem bé nhỏ

Tìm không một mái nhà.

 

Nào ta đến lạy thờ

Dâng tình yêu đơn sơ

Trước Vị Vua từ ái

Cùng muôn vàn ý thơ.

 

Con xin tiến dâng Ngài

Hạnh phúc lẫn bi ai

Tình yêu mãi không phai

Xin thương suốt năm dài.

 

M. Gioan Kim Khẩu

 

 

 

 

NGÔI LỜI ĐÃ “CHỌN” VÀ “LÀM”

“Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14)

 

Minh An

 

Lễ Chúa Giáng Sinh là lễ của niềm vui. Mà quả đúng là vui thật, vì con người được Thiên Chúa yêu thương, được nâng lên địa vị cao trọng như các thiên thần. Và cũng có thể nói, Lễ Chúa Giáng Sinh là lễ của phẩm giá con người, vì Ngôi Lời đã xuống trần gian để nâng cao phẩm giá của con người, sau khi con người đã đánh mất nhân phẩm do không tuân lệnh ý Chúa. Ngôi Lời là Thiên Chúa đã làm người để cho con người được kính trọng, vì đã được nâng lên làm con Thiên Chúa.

 

Nhưng cách mà Ngôi Lời Thiên Chúa đã “CHỌN” và đã “LÀM” lại là một điều rất kỳ diệu mà con người khó hiểu cho thấu, xét cho tỏ tường:

 

1. Ngôi Lời đã “CHỌN”

 

Điều kỳ diệu và khó hiểu đầu tiên là: Ngôi Lời Thiên Chúa đã chọn cung lòng Đức Maria để nhập thể, làm người. Thật là khó hiểu quá, Thiên Chúa đã chọn một người nữ do chính mình tạo nên từ cát bụi để làm mẹ của Đấng Cứu Thế. Hay nói khác đi, Thiên Chúa lựa chọn một người nữ “xác thịt” để sinh - dưỡng Con của Ngài đi trong thế giới nhân loại: “Này đây, một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23).

 

Thiên Chúa đã chọn Đức Maria làm mẹ của Ngôi Lời là vì Ngài quá yêu thương loài người, và muốn nâng phẩm giá con người đạt đến mức cao nhất như thuở ban đầu trong vườn địa đàng. Con người đã đánh mất nhân phẩm từ khi ông bà nguyên tổ đã không vâng phục Ngài, không theo thánh ý Ngài, đã phạm đến mệnh lệnh của Ngài (x. St 3,1-24). Như thế, rõ ràng Thiên Chúa đã yêu nhân loại và chọn giữa nhân loại một người nữ để hợp tác với Ngài trong việc cứu chuộc loài người.

 

Chúng ta cũng được mời gọi mở lòng ra để đón nhận ơn thánh, biết sống đẹp lòng Chúa như Mẹ Maria, và sẵn sàng cưu mang Chúa trong lòng và ban phát ân sủng của Chúa cho thế giới hôm nay.

 

Điều kỳ diệu thứ hai là: Ngôi Lời đã chọn hang đá Bê-lem để sinh ra và chọn máng cỏ để nằm. Điều khó hiểu cho loài người là tại sao một Ngôi Lời Thiên Chúa quyền uy, cao cả, giàu có hơn hết… nhưng khi sinh ra lại chọn hang đá nghèo nàn, nơi chỉ dành cho súc vật nghỉ ngơi, và chọn máng cỏ để nằm thay cho giường chiếu, lụa là gấm vóc. Cách Thiên Chúa chọn đúng là khó hiểu!: “Bà Maria sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con rồi đặt nằm trong máng cỏ” ( Lc 2,7).

 

Cách Ngôi Lời chọn sinh ra nơi hang đá nghèo hèn, nằm trong máng cỏ đơn sơ là dấu chỉ để loài người nhận biết Ngài là Thiên Chúa của yêu thương, Thiên Chúa của những người nghèo khổ và bất hạnh, chính Ngài đã trở nên nghèo để con người nhận được sự giàu có nơi Thiên Chúa: “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Cr 8,9).

 

Điều kỳ diệu thứ ba là: Ngôi Lời Thiên Chúa đã chọn Gioan Tiền hô làm người dọn đường cho Ngài. Thật lạ kỳ, một Ngôi Lời Thiên Chúa đầy quyền thế, có thể làm được mọi sự, thông biết mọi điều… nhưng trước khi xuất hiện để thi hành sứ vụ, lại phải nhờ đến vị Gioan tiền hô dọn đường cho Ngài, giới thiệu Ngài cho dân chúng: “Có một người được Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin…Ông Gioan làm chứng về Người, ông tuyên bố: Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1,6-7.15).

 

Ngôi Lời đã chọn Gioan làm chứng cho Ngài, vì có lẽ Ngài muốn trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, cần có những ngôn sứ, hay những chứng nhân đích thực giới thiệu về Ngài cho muôn dân biết và đón nhận. Đón nhận Ngài là đón nhận ánh sáng chân lý từ trời cao ban xuống: “Ông Gioan đến để làm chứng về ánh sáng. Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đã đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,8-9), đón nhận Ngài là đón nhận sự sống đời đời.

 

Ngôi Lời Thiên Chúa luôn kêu gọi chúng ta làm ngôn sứ, làm chứng nhân cho Ngài, chúng ta có dám đón nhận sứ vụ ấy để mang ánh sáng và chân lý của Chúa đến cho muôn dân hay không?

 

2. Ngôi Lời Thiên Chúa đã “LÀM”

 

Điều kỳ diệu và vĩ đại nhất có lẽ là mầu nhiệm Ngôi Lời đã nhập thể làm người và sống giữa thế gian như bao người khác: “Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,14). Gioan không những chỉ cảm nghiệm được điều “vi diệu” này, nhưng ông còn khẳng định đã nhìn thấy: “Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người”. Điều này nói đến một sự chắc chắn, và hiện thực. Ngôi Lời là Thiên Chúa - Ngài là căn nguyên của mọi sự hiện hữu, trong đó có con người và thế giới, - nhưng đã trở nên “người phàm” như chúng ta, được sinh ra bởi một người nữ, mang thân phận một hài nhi nhỏ bé, yếu ớt… điều đó nói lên Ngài chấp nhận hữu hạn như con người. Đó là Mầu Nhiệm.

 

Tuy nhiên, Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người và sống giữa muôn người, sống hòa đồng với con người, sống như con người đã sống, ngoại trừ tội lỗi (x. Dt 4,15). Nhưng điều cao quý và trở nên mầu nhiệm hơn là Ngôi Lời đã làm người và nhận lấy cái chết nhục nhã trên thập giá là vì con người, vì cứu chuộc con người khỏi tội lỗi. Ngôi Lời đã nhận lấy đau khổ để cho con người đạt đến sự vinh quang: “Vinh quang của ta là thập giá Đức Kitô, nơi Người, ơn cứu độ của ta, phục sinh của ta, nhờ Chúa ta được ơn cứu chuộc, nhờ Chúa ta được giải thoát ” (x. Lời ca đi đàng thánh giá, thứ 6, Tuần Thánh).

 

Như vậy, ta cũng có thể nói như thánh Irênê: “Thiên Chúa đã làm người để con người làm Chúa”. “Làm Chúa” không có nghĩa là đóng thế Chúa, thay vai trò và bản tính của Chúa, nhưng là con người được nâng cao lên đúng với nhân phẩm và xứng đáng với ơn Chúa tặng ban là làm con cái của Ngài, luôn có Ngài ngự trị trong tâm hồn và đồng hành trên mọi bước đường của cuộc sống. Chính thánh Phaolô đã cảm nhận được cách sâu xa về ơn gọi được “làm chúa” của mình qua cách ngài diễn tả: “Này tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô đang sống trong tôi. Hiện nay, tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20).

 

Chính Chúa sống trong ta và ta sống trong Chúa như thánh Phaolô nói, đã chứng minh được rằng, Chúa làm người trong ta và ta được lớn lên trong Chúa. Hay nói khác đi, Ngôi Lời đã làm người và để con người được “làm Chúa”.

 

Tựu trung, Lễ Giáng Sinh là lễ của niềm vui, không những chúng ta chỉ vui vì đón nhận được ân sủng của Chúa qua những cánh thiệp mừng, qua những lời cầu chúc, qua những bữa tiệc liên hoan với anh chị em của mình, nhưng chúng ta vui mừng hớn hở với cách Ngôi Lời Thiên Chúa đã “CHỌN” và đã “LÀM” để mang đến ơn cứu độ cho loài người: “Ta đến cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Chúng ta cũng được mời gọi hãy “Chọn” và hãy “Làm”…những gì…đem lại lợi ích thiêng liêng cho tha nhân. Đó chính là món quà quý giá nhất chúng ta trao cho nhau trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh.

 

 

 

 

ĐÊM ĐÔNG

 

Đêm đông gió rét tiếng thông reo

Giá buốt mùa đông lặng lẽ theo

Máng cỏ lơ thơ vài cọng rác

Hang lừa lác đác cảnh đơn nghèo

Chúa sinh không chọn nơi đông đúc

Con đến cũng tìm chốn vắng teo

Tim Chúa tim con cùng nhịp đập

Từ nay hạnh phúc mãi vang reo.

 

Thuận Nghĩa

 

 

 

 

NGÔI LỜI LÀ ÁNH SÁNG, SỰ SỐNG VÀ ÂN SỦNG

Lớp Savio

 

Ngôi Lời Thiên Chúa - Đức Giêsu Kitô, Ngài là nguồn sự sống, sự thật và ánh sáng thần linh, đã hóa thân làm người, ở giữa nhân loại, trong thân phận con người, để cứu độ thế gian. Những ai tiếp đón Người thì Người cho họ trở nên con Thiên Chúa (x. Ga 1,12), được thông chia sự sống, bình an và hạnh phúc.

 

Thật kỳ diệu, khi Lời Chúa mạc khải cho chúng ta: “Nơi Người là sự sống và sự sống là ánh sáng cho nhân loại”. Trở về với những trang đầu của Kinh Thánh, lúc khởi nguyên, Thiên Chúa tạo dựng trời đất, theo trình thuật của sách Sáng thế, công trình sáng tạo đầu tiên cũng là ánh sáng. Thiên Chúa nói: “Hãy có ánh sáng” (St 1,3) và từ ánh sáng phát sinh mọi sự, đặc biệt là sự sống. Suốt dòng lịch sử của Israel, các ngôn sứ, cách riêng, ngôn sứ Isaia đã cho chúng ta biết dân Thiên Chúa phải chịu cảnh lưu đày, họ “bước đi giữa tối tăm” và có lúc mất hết niềm hy vọng. Dòng giống được tuyển chọn đang bị đè nặng dưới ách nô lệ ngoại bang: “Ách đè lên cổ, gậy đập xuống vai, và ngọn roi của kẻ hà hiếp” (Is 9,3).

 

Niềm hy vọng được cứu thoát khỏi tối tăm, sầu thảm của Israel và của nhân loại nói chung, nay trở thành hiện thực, khi Đấng Vĩnh Cữu chấp nhận quy luật của không gian và thời gian: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi…Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta” (Is 9,1.6-7). Việc loan báo một con trẻ ra đời, tiên tri Isaia đã thấy trước viễn tượng thời đại của hòa bình và hạnh phúc đích thực đã đến. Trẻ thơ đó là ai? Đó chính là Ngôi Lời, là ánh sáng thật, xứng với một “ánh sáng huy hoàng” (Is 9,1), sự sáng ấy đến để chiếu soi nhân loại và soi chiếu lương tâm mỗi người.

 

Trong Tin mừng, thánh Gioan cũng đã diễn tả đặc điểm này như sau: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và soi chiếu mọi người” (Ga 1,9). Mầu nhiệm nhập thể thật cao vời, ý định của Thiên Chúa ai dò thấu? Sự diện diện của một hài nhi bé nhỏ, nghèo hèn nơi đồng hoang cô quạnh, lại có quyền năng làm cho bóng tối phải lùi bước? Không lầu son gác tía, không cung điện cao sang, Người muốn được hạ sinh trong đêm tối của kiếp người, để chiếu lên nhân loại một thứ ánh sáng rạng ngời, ánh sáng của Thiên Chúa. Từ bao thế hệ, thế lực sự dữ muốn nhấn chìm con người trong bóng tối, thì nay, chính Người đã khải hoàn vinh thắng. Giữa đêm đông giá lạnh của trần gian, Thiên Chúa đã đến để thắp lên ngọn lửa tuyệt vời nhằm đem lại hơi ấm cho nhân loại.

 

Chúng ta đang hiện hữu, liệu chúng ta có nhận ra sự sống mà Ngôi Lời ban cho chúng ta mỗi ngày không? Nếu con người không đón nhận Lời Chúa, ánh sáng và sự sống, và để cho Lời Chúa tiếp tục soi sáng, dẫn dắt, nuôi sống thì cũng sẽ rơi vào tình trạng hỗn mang tăm tối, nghĩa là dẫn đến sự chết. Mỗi ngày, giữa môi trường chúng ta đang sống, mỗi người hãy là những ngọn đuốc sáng niềm tin và hy vọng soi chiếu tha nhân, giúp họ nhận biết ánh sáng thật, là nguồn chân lý đến từ Thiên Chúa.

 

Cách riêng, đối với người sống đời thánh hiến trong thời đại hôm nay, ta có tự vấn về trách nhiệm phản chiếu ánh sáng của Thiên Chúa cho tha nhân không? Câu trả lời chẳng đơn giản chút nào. Giữa một thế giới tục hóa, nếu ánh sáng của chúng ta không thể chiếu tỏa, thì cũng không nên làm lu mờ ánh sáng của Thiên Chúa dọi chiếu trên người khác. Những người sống bậc tu trì, bước theo Chúa Kitô, nhận lấy sứ vụ “thắp ánh sáng” cho môi trường mình đang hoạt động, hoặc đang sống. Vì tu sĩ đã chấp nhận tất cả để bước theo tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa. Họ xác tín rằng, có Chúa là có tất cả, có Chúa là có niềm hy vọng và ánh sáng soi đường để họ vững bước trên mọi nẻo đường loan báo Tin mừng: “Người tu sĩ không chỉ có một lịch sử huy hoàng để nhớ lại và tường thuật, mà còn có một lịch sử oai hùng cần viết nên! Hãy nhìn về tương lai nơi mà Thánh Linh đã dự định thực hiện cùng với người tu sĩ những điều trọng đại hơn nữa” (Vita Consecrata, số 110).

 

Để hoàn tất của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa, tu sĩ bước theo Chúa Kitô, họ được ví như những “ngọn hải đăng” chiếu sáng giữa đêm tối mịt mù, mang lại niềm vui và bình an cho những người mà họ gặp gỡ. Tuy họ “sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian” (x. Ga 17,14.16). Họ một lòng hiến toàn thân phục vụ Vua ánh sáng trên trời. Tu sĩ cũng sẵn sàng trả giá cho hành trình lội ngược dòng với đời, dám từ bỏ tất cả để dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa. Khi đến với tha nhân, họ mang ánh sáng và trao ban niềm vui. Đối với người nghèo khổ, họ sẻ chia và đồng cảm với cảnh thiếu thốn. Với người mất niềm tin vào cuộc sống, họ khơi dậy niềm hy vọng. Giữa một thế giới chiến tranh và hận thù, sự hiện diện của tu sĩ mang đến sự bình an với tấm lòng bao dung. Giữa một thế giới vô cảm và chia rẽ, trách nhiệm của họ là hàn gắn và cảm thương...

 

Chúng ta, những tu sĩ của thời đại, hãy tạ ơn Chúa vì được “đón nhận” Ngôi Lời nhập thể, như thánh Giuse, Đức Mẹ và các mục đồng. Vì chúng ta được đón nhận sự sống từ Ngôi Lời và ánh sáng thần linh, như tâm tình của Vịnh gia: “Quả Ngài là nguồn sống, nhờ ánh sáng của Ngài, chúng con được nhìn thấy ánh sáng” (Tv 36,10). Nhờ niềm tin vào Đức Giêsu Kitô và nhờ ân huệ Thiên Chúa ban mà chúng ta được tái sinh, trở nên con cái của Thiên Chúa và trở thành anh chị em với nhau. Ngôi Lời đã làm người và cắm lều giữa chúng ta (Ga 1,14), Ngài trở nên khuôn mẫu cho chúng ta noi theo. Qua bí tích Thánh thể, Ngài đồng hành với chúng ta mỗi ngày. Cũng vậy, trong đời sống thánh hiến, chúng ta được mời gọi đồng hành, sẻ chia nỗi thống khổ cũng như niềm vui với anh chị em của mình.

 

Nhờ ơn tái sinh và được làm con Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi đọc lại lịch sử đời mình để nhận ra: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,16). Chúng ta cũng được mời gọi luôn biết tạ ơn và chúc tụng Thiên Chúa với tình con thảo, đồng thời nhận ra ân sủng lớn lao mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, đó chính là ơn được tham dự vào sự sống thần linh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúng ta cũng nhận được ân sủng mà Đức Giêsu thông truyền cho chúng ta, bởi vì Ngài là “Con Một tràn đầy ân sủng và sự thật” (Ga 1,14). Chúng ta cũng được mời gọi như Gioan Tẩy giả, trở nên chứng nhân loan báo Ngôi Lời chính là ánh sáng, sự sống và ân sủng cho mọi người. 

 

 

 

HỒNG ÂN CỨU ĐỘ

 

Ngân vang dâng Chúa lời kinh

Muôn cung đàn hỡi ân tình chứa chan

Hiệp nhau trong Đấng ủi an

Vinh tụng ca Đấng ân ban muôn loài

Cao cả thay Chúa đất trời

Vì yêu nhân thế xuống nơi phàm trần

Mặc thân xác kiếp phàm nhân

Sống đời dương thế thông phần thọ sinh

Chịu đau nhục vác khổ hình

Chết treo thập tự hy sinh cứu đời

Ôi! Tình yêu Chúa tuyệt vời

Cao vời khôn thấu, vui tươi thế trần

Cứu người thoát cảnh trầm luân

Đưa về Thiên Quốc hợp hoan muôn đời.

 

Bụi Trần

 

 

 

 

NGÔI LỜI THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI

ĐEM LẠI NIỀM VUI VÀ ƠN CỨU ĐỘ CHO NHÂN LOẠI

 

Lớp Martin de Porres

 

Dẫn Nhập

 

Từ khởi nguyên, do bởi tình yêu trào tràn, Thiên Chúa đã sáng tạo con người theo hình ảnh Ngài. Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1,26).

 

Con người được hưởng hạnh phúc và được sống cùng Thiên Chúa nơi vườn địa đàng, thế nhưng con người đã sa ngã vì tội bất tuân, từ đó con người đánh mất ân nghĩa với Thiên Chúa, phải gánh lấy hậu quả là phải nếm những đau khổ, lầm than và sự chết; người phụ nữ phải cực nhọc khi thai nghén, phải vất vả mọi ngày trong đời mới kiếm được miếng ăn (x. St 3,16-19. Nhưng Thiên Chúa không từ bỏ con người, trái lại Ngài có kế hoạch cứu độ con người, và lịch sử cứu độ bắt đầu ngay khi Ađam và Eva sa ngã. Quả thật, cho dù con người bất tín, bất trung với Thiên Chúa, Ngài vẫn không rút lại tình yêu đối với con người, khi hứa ban Đấng cứu độ sẽ xuất hiện từ dòng giống người phụ nữ - người sẽ đạp nát đầu con rắn (x. St 3,15; Rm 5,12-21).

 

Con người, qua muôn ngàn thế hệ, vẫn hằng mong ngóng lời hứa cứu độ đó, niềm hy vọng luôn hướng về trời cao, nơi mà Đấng cứu độ sẽ đến với nhân loại. Đúng như lời Kinh Thánh tiên báo, Thiên Chúa đã ban Con Một của Ngài cho nhân loại: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới lề luật, để chuộc những ai sống dưới lề luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5).

 

Vì tội lỗi, con người đã làm hỏng mối tương giao thân tình với Thiên Chúa, hậu quả kéo theo là loài người phải gánh chịu những xáo trộn và tổn thương, đánh mất niềm vui và hạnh phúc mà Thiên Chúa đã ban tặng cho mình. Tuy nhiên, do lòng thương xót của Thiên Chúa, loài người được cứu chuộc trong Đức Giêsu Kitô. Nhờ Đức Kitô, hình ảnh Thiên Chúa nơi họ được tái tạo, họ tiến về với Thiên Chúa trong niềm vui và tự do. Như thế, mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể làm người đã thật sự mang đến cho nhân loại nguồn bình an và hạnh phúc đích thực: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14).

 

1. Đấng Mêsia: niềm trông đợi và lòng trung thành của Israel

 

Niềm khao khát Thiên Chúa được ghi khắc trong trái tim của con người, bởi vì con người được tạo dựng bởi Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người đến với Ngài, và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới gặp được chân lý và hạnh phúc mà họ không ngừng tìm kiếm (x. GLHTCG, số 27).

 

Lần giở lại những trang lịch sử thời Cựu ước, chúng ta thấy nỗi khát khao và mong chờ một Đấng cứu độ sẽ được ban xuống cho nhân loại, được thể hiện một cách đặc biệt qua lời nguyện cầu trong sách ngôn sứ Isaia:

 

“Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương

  Mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính

  Đất mở ra đi cho nảy mầm ơn cứu độ

  Đồng thời chính trực sẽ vươn lên” (Is 45,8).

 

Niềm vui và hy vọng chờ đợi Đấng cứu thế được tác giả sách Diễm Ca diễn tả như mối tình của đôi trai tài gái sắc. Với ngôn từ du dương, ngọt ngào của bản tình ca thể hiện nỗi khát mong đó: “Suốt đêm trên giường ngủ, tôi tìm người lòng tôi yêu dấu” (Dc 3,1).

 

Các sách Cựu Ước đã công bố niềm vui của ơn cứu độ sẽ trở thành sung mãn trong thời của Đấng Mêsia. Ngôn sứ Isaia hướng về Đấng Mêsia đang được mong đợi với niềm vui mừng chào đón: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng” (Is 9,2). Ngôn sứ động viên dân cư thành Sion đón tiếp Người giữa tiếng ca: “Dân Sion, hãy reo hò mừng rỡ” (Is 12,6). Ngôn sứ mời gọi người loan tin rằng: “Hỡi kẻ loan Tin Mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao, hỡi kẻ loan Tin Mừng cho Giêsusalem, hãy cất tiếng lên cho thật mạnh” (Is 40,9). Toàn thể vũ trụ chia sẻ niềm vui ơn cứu độ: “Trời hãy reo hò, đất hãy nhảy múa, núi non hãy bật tiếng reo hò, vì Đức Chúa ủi an dân người, và chạnh lòng thương những người nghèo khổ của Người” (Is 49,13).

 

Nhìn thấy trước ngày của Chúa đến, ngôn sứ Dacaria mời gọi mọi người reo hò trước Đức Vua đang đến: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đến với ngươi: Người là Đấng chính trực toàn năng” (Dcr 9,9). Nhưng lời mời mạnh mẽ nhất có lẽ là lời mời gọi của ngôn sứ Sophonia, chỉ cho chúng ta thấy chính Thiên Chúa như trung tâm tỏa sáng của buổi lễ, Đấng muốn chia sẻ cho dân Người niềm vui cứu độ. Tôi luôn bị đánh động cách mạnh mẽ mỗi khi đọc lại bản văn này[24]: “Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng trong ngày lễ hội” (Sp 3,17).

 

Qua những điều đã được nói đến trên đây, xuyên suốt dòng lịch sử thời Cựu Ước cho đến khi Đấng cứu thế xuất hiện, dân Israel luôn khao khát mong chờ Ngài. Nỗi khao khát Thiên Chúa ngày càng thêm mãnh liệt, không chỉ ở trong lòng, nhưng đã được các Vịnh gia thốt lên: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngày từ rạng đông, con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn không giọt nước” (Tv 63,2).

 

Sự trông đợi vào lời hứa của Thiên Chúa làm cho dân Israel cảm thấy được an ủi và can đảm trong mọi nghịch cảnh đau thương của cuộc sống; nhất là khi đối diện với kẻ thù. Khi gặp nghịch cảnh, dân Chúa cầu xin: “ Xin thực hiện cho tôi tớ đây lời đã hứa để mọi người kính sợ thánh danh. Xin giữ con khỏi nỗi nhục nhằn con vẫn sợ, vì quyết định Ngài tốt đẹp dường bao ... Lạy Chúa, xin cho con được hưởng tình thương Chúa và ơn cứu độ theo lời hứa của Ngài. Con sẽ đối đáp với người lăng nhục, vì con tin cậy ở lời Ngài” (Tv 119,38-39.41-42).

 

Thế nhưng, niềm tin của dân Israel vào lời hứa của Thiên Chúa không phải không có những thử thách, sóng gió. Nhiều lúc họ dường như đã bị nhấn chìm trong đêm tối của đức tin và niềm hy vọng, làm cho họ ngã lòng và buông theo các dục vọng tội lỗi. Nhưng trong những thử thách đêm đen đó vẫn còn rất nhiều người giữ lòng trung thành vào lời hứa của Thiên Chúa; đặc biệt là ông Abraham. Trong thư Do thái, tác giả đã dùng những từ ngữ tuyệt vời để diễn tả lý do sâu xa lòng trung thành của Abraham: “Vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng [...] Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất” (Dt 11,10-13).

 

Mặc dù bị hiếm muộn và chịu nhiều thử thách trong thời gian dài, nhưng Thiên Chúa đã ban cho Abraham một người con nối dõi và chúc phúc cho ông (x. St 17,4-8). Có thử thách nào về lòng trung thành đắc dụng hơn là thử thách của thời gian và sự đơn điệu của ngày thánh qua đi? Không có gì tàn tệ hơn là chiến đấu chịu đựng những ngày tháng dài lê thê[25] .

 

Abraham không những đã tin mà còn trung thành với Thiên Chúa, ông trở nên khuôn mặt nổi bật đại diện trong Cựu Ước, là cha của kẻ tin và được Thiên Chúa đặt làm cha của vô số dân tộc (x. St 17,5). Niềm tin và lòng trung thành của Abraham vào lời hứa cứu độ của Thiên Chúa như tấm gương cho hậu thế, những người đang trông chờ Đấng cứu thế xuất hiện. Simeon và Anna, hai nhân vật được xem như những người đại diện cho dân Israel đạo đức thời Tân Ước, đón chào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, Ngôi Lời nhập thể. Chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về vấn để này trong mục kế tiếp.

 

2. Đức Giêsu, nguồn hạnh phúc và niềm vui viên mãn

 

Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, mang niềm vui tràn ngập tâm hồn cho những ai gặp gỡ Ngài (x. Lc 2,29-31). Những ai được Ngài cứu độ, sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi. Niềm vui ơn tái sinh sẽ đến với những ai gặp gỡ Đức Giêsu Kitô và tin vào Người. Ông Simeon, sau khi gặp Hài Nhi Giêsu, đã thốt lên: “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được nhìn thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân” (Lc 2,29-31).

 

Đức Giêsu đến trần gian, mang niềm vui và bình an đích thực cho nhân loại, nhất là cho những người nghèo khổ; niềm vui đó đã được các thiên sứ loan tin: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14). Niềm vui và bình an đó làm cho lòng người dâng trào, đến nỗi có thể thốt lên rằng: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa, nhờ Thiên Chúa tôi hớn hở biết bao vì Người đã mặc cho tôi hồng ân cứu độ, choàng cho tôi đức chính trực công minh, như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa cô dâu lộng lẫy điểm trang” (Is 61,10).

 

Những điều chúng ta thấy và cảm nghiệm về một vị Vua của bình an và là Đấng Mêsia được báo trước mà muôn dân hằng mong đợi, nay đã thành hiện thực. Trình thuật Đức Giêsu vào thành Giêrusalem trong tin mừng Luca với tư cách Đấng Mêsia (x. Lc 19,35-38) là để ứng nghiệm lời ngôn sứ: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi…Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn đang theo mẹ. Người sẽ quét sạch chiến xa, cung nỏ chiến tranh sẽ bị Người bẻ gãy. Người sẽ công bố hòa bình cho muôn dân” (Dcr 9, 9-10). Joseph Ratzinger nói về đoạn trích này như sau: Trong tầm nhìn rộng của văn bản này - liên hệ từ sách Dân Số (Ds 12) đến sách Dacaria (Dcr 9) sang đến các lời chúc phúc và tường trình về ngày lễ lá - chúng ta thấy tất cả đều muốn nói Đức Giêsu chính là vị vua hòa bình, phá vỡ tất cả rào chắn ngăn cách giữa người với người, dân tộc này với dân tộc kia và tạo một không gian hòa bình “từ biển này sang biển nọ”. Với sự vâng phục, Người mời gọi chúng ta bước vào sự bình an của Người và gieo rắc bình an vào lòng thế giới[26] .

 

Những điều chúng ta vừa đề cập, đều nói lên rằng, Đức Giêsu chính là hạnh phúc, là niềm vui và nguồn bình an viên mãn cho những ai trông chờ và gặp gỡ Ngài, “vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người” (Cl 1,19). Trong tông huấn Evangelii Gaudium, số 5, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã diễn tả niềm vui đó như sau: “Phúc âm, trong đó Thập giá của Đức Kitô chói sáng rạng ngời, luôn mời gọi chúng ta đến niềm vui. Vài ví dụ cũng đủ: lời chào của thiên thần nới với Đức Maria ‘Chairè- hãy vui lên’ (Lc 1,28). Việc thăm viếng của Đức Maria nơi nhà bà Êlisabeth đã làm cho Gioan nhảy mừng trong dạ mẹ” (x. Lc 1,41).

 

Trong bài ca Magnificat, Đức Maria biểu lộ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, Đấng Cứu độ tôi” (Lc 1,47). Chính Đức Giêsu, khi được Thánh Thần tác động, cũng hớn hở vui mừng (x. Lc 10,21). Sứ điệp của Người là niềm vui: “Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em, và niềm vui của anh em được trọn vẹn” (Ga 15,11).

 

Chính Đức Giêsu cũng đã khẳng định Ngài chính là nguồn sự sống sung mãn cho chúng ta: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Những lời loan báo của các ngôn sứ trong Cựu Ước, giờ được nên trọn nơi Đức Giêsu. Những lời Ngài công bố ở hội đường Do thái lúc khởi đầu sứ vụ của Ngài cách đây hơn hai ngàn năm, nay vẫn còn nguyên giá trị: “Thần Khí Đức Chúa ngự trên tôi, để tôi loan Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được ta, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 17-2; x. Is 61,1-2).

 

3. Nhân loại được cứu độ do bởi ý định tình yêu thương của Thiên Chúa

 

Lòng thương xót và ý định cứu chuộc nhân loại bởi tình yêu thương của Thiên Chúa được thể hiện xuyên suốt theo dòng chảy lịch sử của nhân loại. Dù là cá nhân hay tập thể, Thiên Chúa vẫn luôn ngỏ lời: “Từ xa xưa Đức Chúa hiện ra với tôi: ‘Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên ta vẫn dành cho ngươi lòng thương xót’” (Gr 31,3). Hơn thế nữa, “vì tình yêu Thiên Chúa đã tự mặc khải và ban chính mình Ngài cho con người; qua đó, Ngài mang lại lời giải đáp vĩnh viễn và dư đầy cho những vấn nạn mà con người tự rút ra cho mình ý nghĩa và cùng đích cuộc đời họ” (GLHTCG, số 68).

 

Từ khi Nguyên Tổ phạm tội, đánh mất ân nghĩa cùng Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương và chuẩn bị cho con người một chương trình cứu độ. Thiên Chúa đã chọn ông Abraham để chuẩn bị cho chương trình cứu độ ấy. Sau thời các tổ phụ Abraham, Isaac và Giacop, dân Israel phải lưu lạc trên đất Ai cập, chịu sự cai trị của ngoại bang. Đỉnh cao của việc Thiên Chúa giải thoát dân Người là biến cố xuất hành, dân Israel vượt qua biển đỏ, về miền đất hứa (x. Xh 14,1-31). Nhận thấy kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện để cứu Israel, toàn dân đã vui mừng hát bài ca chiến thắng (x. Xh 15,1-18). Hình ảnh ông Môse đưa dân vượt qua biển đỏ, thoát khỏi Ai cập, chính là hình ảnh Đấng cứu tinh sẽ đến để giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của tội lỗi.

 

Có thể thấy rõ khái niệm ân sủng trong Cựu ước nơi sự chiếu cố hoàn toàn tự do và vô điều kiện của Thiên Chúa (x. Xh 33,19; Đnl 7,7), Đấng hiện hữu “có đó” là vì dân của Người (x. Xh 3,14). Khi Thiên Chúa tự mạc khải Danh của Người cho Môsê, thì lời nói mang tính quyết định - tức lời nói dẫn đến việc lập lại giao ước với Israel và việc ban các giới răn - chính là câu ở sách Xuất Hành 34,6: “Đức Chúa, Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín”. Hình ảnh Thiên Chúa được biểu lộ trong những lời này cho thấy nơi Người, một Đức Chúa trung tín với giao ước, một ông chủ khoan dung (x. Ge 2,13; Gn 4,2; Tv 86,15; 103,8). Tất cả những quan niệm về ân sủng Cựu Ước mà ta có thể thu thập để diễn tả thái độ của Thiên Chúa, Đấng đã đích thân nhìn đến dân của Người[27].

 

Thật vậy, chỉ vì yêu mà Thiên Chúa đã thiết lập kế hoạch cứu độ, để cứu thoát con người khỏi tội lỗi, và cho con người được sống trong nguồn hạnh phúc sung mãn. Thiên Chúa muốn cho chúng ta được tham dự vào phần phúc của Ngài: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa” (1Ga 3,1). Được gọi là con Thiên Chúa, đối với chúng ta, là một hồng ân, vì theo thánh Lêô: “Hồng ân vượt trên hết mọi hồng ân là Thiên Chúa gọi phàm nhân là con, và phàm nhân xưng hô Thiên Chúa là Cha mình” (Bài giảng 6, lễ Giáng Sinh). Và còn hơn thế nữa, nhờ một tác động đặc thù của tình yêu và lòng nhân hậu, Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi và gọi tôi làm nghĩa tử của Ngài nhờ phép thánh tẩy; vì Thiên Chúa sung mãn và phú túc vô hạn, Ngài chẳng cần tới một thụ tạo nào[28]: “Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người” (Gc 1,18).

 

Con người không những được Thiên Chúa tạo dựng, được gọi Thiên Chúa là Cha, được Ngài nhận làm nghĩa tử, mà còn được Đức Giêsu Kitô, Con Một chí ái của Ngài cứu độ. Đức Giêsu trở thành Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại.

 

4. Đức Giêsu Kitô - Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại

 

Như chúng ta đã biết vì một người duy nhất, mà nhân loại bị chìm ngập trong tội lỗi. Nhưng cũng chính nhờ một người duy nhất, là Đức Giêsu Kitô, muôn người được nên công chính và được cứu độ (x. Rm 5,12-19).

 

Trải dài qua bao thế hệ, có rất nhiều người yêu mến và khao khát rao giảng về Đức Kitô, Đấng Cứu độ trần gian, như những tông đồ nhiệt thành xưa, để loan truyền ơn Cứu dộ của Đức Giêsu đến cho trần gian. Một trong những người nhiệt thành rao giảng Đức Kitô nhất, chính là thánh Phaolô. Ngài say mê Đức Kitô, đến nỗi: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1,21). Thánh Phaolô chẳng quản ngại nhọc lao vì Đức Kitô và các chi thể của Chúa là Hội thánh: “Phần tôi, tôi sẵn lòng tiêu phí tiền của, và tiêu phí cả sức lực lẫn con người của tôi vì linh hồn anh em” (2 Cr 12,15).

 

Nói về ơn cứu độ, thánh Phaolô, trong thơ thứ nhất gởi ông Timothê, xác quyết rằng: “Thật vậy, chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Kitô Giêsu, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người” (1Tm 2, 5-6). Và chính Đức Kitô đã tuyên bố với các môn đệ: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).

 

Trong thư gửi giáo đoàn Ephesô, thánh Phaolô viết những lời tán tụng như sau: “Theo ý muốn và lòng nhân ái của Ngài, Ngài đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu. Trong Thánh Tử, nhờ máu Ngài đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Ngài” (Ep 1,5-7).

 

Những dòng trên đây cho chúng ta một cái nhìn sâu xa và xây dựng nền tảng đức tin vững chắc hơn vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ đó chúng ta biết rằng: “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ, vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được Cứu độ” (Cv 4,12).

 

Trong tông thư ngàn năm thứ ba đang tới, Đức Gioan Phaolô II khẳng định rằng: “Chủ đề tổng quát được nhiều hồng y và giám mục đề nghị cho năm nay là: ‘Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ duy nhất của trần gian, hôm qua, hôm nay và mãi mãi’. Đó là khẳng định quan trọng nhất của đức tin chúng ta với Đức Giêsu Kitô. Khẳng định đó muốn nói rằng ý Thiên Chúa muốn cứu độ toàn thể nhân loại được tỏ lộ và được thực hiện một cách duy nhất và quyết định trong mầu nhiệm Đức Giêsu và trong Giáo Hội, bí tích của sự cứu độ trong lịch sử. Chính Ngài là nguồn mạch duy nhất của mọi kinh nguyện khác cũng như sự thông truyền ơn cứu độ ở ngoài Kitô giáo. Chỉ ở nơi Ngài, nhân loại, lịch sử và vũ trụ mới tìm thấy ý nghĩa thật sự tích cực và được thực hiện một cách hoàn toàn, được thanh luyện và được giải thoát mãi mãi khỏi các vòng tiêu cực, đó là các triết lý, xã hội, luân lý, tinh thần và vũ trụ - Chính Đức Giêsu - nơi Ngài, trong mọi biến cố và trong con người của Ngài, những lý lẽ có tính cách tuyệt đối quyết định của sự cứu độ”[29].

 

Tất cả những gì đã tìm hiểu có thể giúp chúng ta có một cái nhìn sâu xa hơn về tình yêu và lòng nhân từ của Thiên Chúa, đã thương Cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi: “Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban nhưng không, nhờ công trình Cứu chuộc được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô” (Rm 3, 23-24).

 

Lời kết

 

Chẳng phải là một sự tình cờ, nếu một hôm chúng ta chợt thấy mình đang hiện hữu. Hai chữ “tình cờ” không nằm trong ngôn ngữ của kẻ tin. Mọi sự vật hiện hữu đều nằm trong sự sáng tạo và quan phòng của Thiên Chúa, Đấng vẫn hằng luôn yêu thương ta bằng mối tình muôn thưở, Đấng Cứu chuộc chúng ta bằng giá máu của Người, Đấng đã đem lại ơn bình an và niềm vui cho nhân loại. Chúng ta có thể mượn lời của Vịnh gia mà dâng lời tạ ơn: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 117,1).

 

Lời kinh tạ ơn vẫn luôn ngân vang trên miệng người tín hữu; bởi vì, trong lòng họ luôn có Thiên Chúa là niềm vui. Niềm vui đó không chỉ được thể hiện trong những giây phút hạnh phúc mà còn trong cả những lúc gặp đau khổ thử thách. Chính nhờ Đức Kitô, họ được đón nhận ân sủng dồi dào: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta được lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. Quả thế, lề luật đã được ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Kitô mà có” (Ga 1,16-17).

 

Với khả năng và sự hiểu biết giới hạn, tuy nhiên, mỗi thành viên lớp Martin de Porres, với lòng khao khát chân thành, xin được viết lên những suy tư, góp nhặt, với ước mong đem đến cho mọi người thêm phần nào đó thấu hiểu về tình yêu thương của Thiên Chúa, thể hiện qua Đức Giêsu Kitô, là Đấng Cứu tinh và là Đấng Emmanuel - nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

 

Chúng ta hạnh phúc vì được gặp gỡ Đức Giêsu Kitô và nhận ra rằng, Người là đối tượng duy nhất ta theo đuổi. Đây chẳng phải khởi đi từ ý chí, hay bởi vì ta là những kẻ duy tâm, nhưng là khởi đi từ tình yêu đi bước trước của Thiên Chúa đến trong đời ta, và nhờ đức tin, chúng ta yêu mến Thiên Chúa và phụng sự Người với con tim chân thành.

 

 

 

 

 

NHỮNG NGƯỜI ĐI TÌM

M. Gioan

 

Trong khung cảnh huy hoàng của đêm Giáng Sinh, Chúa Giêsu Hài Đồng nằm trong máng cỏ là hình ảnh trung tâm được hướng tới, bên cạnh đó, chúng ta có thể chiêm ngắm dáng vẻ cung kính của Đức Maria và thánh Giuse. Ngoài ra, mọi người còn bắt gặp ba Đạo sĩ gối gùy thân bái hướng trước Chúa Hài Đồng, tay dâng lên Ngài bảo tráp chứa: Vàng, nhũ hương và mộc dược.

 

Thế nhưng, thủa xưa, ở một nơi đồng quê nghèo nàn xa xôi hẻo lánh, một Hài Nhi sinh ra trong hang bò lừa, gần như không mời, không báo. Vậy tại sao ba vị Đạo sĩ, những người ngoại quốc, ăn mặc sang trọng lại xuất hiện nơi đây và hết sức tỏ lòng tôn kính Hài Nhi? Theo Kinh thánh, mấy Đạo sĩ này từ phương Đông tới, nhờ sự hướng dẫn bởi ngôi sao lạ xuất hiện, nên họ cùng nhau lên đường (x. Mt 2,1-2).

 

Các Đạo sĩ đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông (Mt 2,2). Hành trình tìm kiếm nào cũng đòi hỏi từ bỏ những tiện nghi mà mình đang có, đôi khi còn gặp nhiều thử thách gian nan. Không quá phụ thuộc vào cuộc sống sung túc mà mình đang hưởng, khi thấy một ngôi sao lạ xuất hiện ở phương Đông, các chiêm tinh gia biết chắc rằng có một vị vua vĩ đại mới sinh. Họ đi tìm và lân la dò hỏi: “Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2,2). Các Đạo sĩ ắt hẳn đã lường trước được những khó khăn trên đường đi từ nước này sang nước khác: Có thể bị các nước khác tống ngục vì nghi ngờ là gián điệp; có thể phải chết đói, chết khát vì cạn lương thực ở nơi vắng người; bị thú dữ ăn thịt hay với phẩm phục sang trọng và tướng tá đạo mạo sẽ trở thành con mồi béo bở cho bọn cướp. Những khó khăn ấy không thể là rào cản quá lớn trước nghị lực phi thường và lòng khao khát được diện kiến Vị Vua Do Thái mới sinh của các Đạo sĩ.

 

Khi qua đất nước Do Thái, nơi mà ngôi sao lạ xuất hiện, để tránh những phiền phức không đáng có, các Đạo sĩ vào gặp vua Herode để hỏi xem vị Vua Do Thái mới sinh, hiện ở đâu. Họ không ngờ rằng, chính sự dò hỏi của họ là thông tin, làm cái cớ cho Herode tìm cách giết hại Hài Nhi Giêsu. Nhưng sự khôn ngoan của thế gian không thể nào xâm hại được đến ý định của Thiên Chúa, Thiên Chúa đã dùng ngay chính sự gian tà của con người để thực hiện chương trình của Ngài. Nhờ có được thông tin từ Herode cung cấp, rằng: “Hài Nhi sinh hạ tại Bê-lem, miền Giu-đê” (Mt 2,5-6).

 

Sau khi rời khỏi hoàng cung, ánh sao lạ lại xuất hiện và dẫn lối họ tiếp tục cuộc hành trình. Ánh sao của vị vua Chính Trực Công Minh không thể nào bị trộn lẫn với bóng tối của kẻ gian ác, Vua Công Chính không thể được tìm thấy nơi mà sự an ác ngự trị. Các Đạo sĩ không thể nào nhìn thấy được ánh sáng sự thật, bao lâu chưa thoát ra khỏi bóng tối của gian dối nơi Herode (x. Mt 2,9). Nhờ vào khả năng thiên bẩm và sự hướng dẫn của ngôi sao lạ, các Đạo sĩ tìm đến được nơi mà Hài Nhi, Vua Do Thái sinh ra, là một cái hang đá chốn bò lừa trú ngụ. Lại một thử thách và ngạc nhiên cho kẻ đi tìm, vì một vị Vua Do Thái lại hạ sinh chốn bò lừa, thân bọc tã và nằm trong máng cỏ được sao?

 

 Các vị Chiêm tinh không vì ngoại cảnh mà thất vọng. Nhờ đó, các vị đã được hưởng nếm vinh quang, nguồn bình an và ngập tràn hạnh phúc trước sự hiện diện của Ngôi Lời nhập thể, vị Vua Cả của trời đất. Sau khi đã được diện kiến Con Thiên Chúa xuống thế làm người, được hưởng nếm các ân huệ của Ngài, Thiên Chúa không kêu mời các Đạo sĩ ở lại cùng sống với Con Mình, nhưng mời họ ra đi, và đừng trở lại gặp Herode nữa, hãy đi lối khác mà về xứ mình (x. Mt 2,12). Họ ra đi và được biến đổi, trở thành những con người mới, nhận biết Chúa và tin vào Ngài. Họ ra đi, mang tin mừng Giáng Sinh và ơn cứu độ cho người bốn phương. Từ nay, ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho dân Israel, nhưng là ơn cứu độ phổ quát, dành hết cho mọi người, không giới hạn bởi không gian và thời gian.

 

Cuộc tìm kiếm nào cũng có những gian lao vất vả, đòi hỏi kẻ đi tìm phải kiên trì chịu đựng qua từng thử thách trên đường. Trước khi gặp được Chúa, ắt hẳn kẻ đi tìm đã từng bao lần vấp ngã, té nhào bởi yếu đuối của phận người vì các vật cản trên đường, và những cạm bẫy của bóng tối bủa vây. Để đến được nơi, gặp gỡ được Chúa, kẻ kiếm tìm cần vượt qua những thử thách gian khổ, đó chính là dấu chứng tình yêu kẻ đi tìm dâng cho Chúa; càng gặp gian nan đau khổ nhiều, khi gặp được Đấng mà ta kiếm tìm, niềm vui và hạnh phúc sẽ càng to lớn. Hãy tìm thì sẽ gặp (Lc 11,9), đó là lời Chúa hứa. Khi đã được diện kiến Chúa, kẻ đi tìm sẽ nhận được nguồn bình an bất tận. Không chỉ dừng lại ở cuộc gặp gỡ Chúa, rồi “cắm lều” và quên lối về, nhưng cần ra đi để làm chứng cho sự hiện diện của Chúa và tình yêu của Ngài cho tha nhân trong cuộc đời của mình, đó mới là mục đích cuối cùng của kẻ kiếm tìm.

 

 

 

 

CON CHỜ CHÚA, CHÚA CHỜ CON

An Bình

 

Ngày nay, nhờ con người phát minh ra nhiều điều kỳ diệu nên khoa học phát triển một cách vượt bậc. Tuy nhiên, thế giới mà họ đang sống cũng đầy những nghịch lý và mâu thuẫn. Chúng ta có thể nghe tiếng nói của nhau mà không thấy mặt, có thể hàn huyên tâm sự với nhau, nhưng cách xa nhau ngàn dặm: Như mạng xã hội Facebook, Yahoo…Nói cách khác, chúng ta có thể gần nhau, nhưng lại rất xa nhau. Thế giới của hình bóng và những âm thanh có thể tạo ra những hình ảnh, tuy hiện diện đó, nhưng chỉ là ảo ảnh mà thôi. Vì vậy, thế giới tuy đầy những sự vật, nhưng thực ra lại trống rỗng, bởi vì các tâm hồn đã bị vật chất lấp đầy, khiến chúng ta có thể gần gũi nhưng mất dần sự cảm thông.

 

Thật khác xa với thời mà con người luôn luôn cần đến sự hiện diện trực tiếp của nhau, không những tình người được liên kết bền chặt thắm thiết giữa ông bà cha mẹ, con cái và anh chị em, mà còn lan rộng ra cả tình làng nghĩa xóm. Con người hiện diện với cộng đồng xã hội và cho cộng đồng xã hội, đến nỗi thiếu sự diện của một người, làm cho người khác phải nhớ da diết. Tôi nhớ hồi còn nhỏ, ba tôi thường đi buôn bán xa, tối nào mẹ tôi thắp ngọn đèn dầu leo lét chờ đợi, tôi biết rằng đêm nay ba sẽ về.

 

Khi lớn lên, mỗi Mùa Vọng tới, tôi lại nhớ đến kỷ niệm thời thơ ấu nói trên, và hiểu ngay rằng, Mùa Vọng là mùa chờ đợi, chờ đợi một Con người. Con người ấy là Đức Giêsu, Đấng hứa sẽ trở lại với chúng ta vào những giờ phút mà chúng ta không ngờ tới (x. Mt 24,43). Và Người bảo chúng ta cầm đèn sáng trong tay, tỉnh thức, sẵn sàng và chờ đợi (x. Mt 25,1). Ngày nay, đèn điện được chiếu sáng trong cả những hang cùng ngõ hẻm, khỏi cần ai cầm đèn soi lối cho người lữ khách. Tất cả những tiến bộ khoa học ấy đã làm cho những biểu tượng tôn giáo mất dần đi ý nghĩa thiêng liêng cao đẹp. Mới đây trên đài truyền hình Sài Gòn, tôi nghe cô phát thanh viên nói tới các “thượng đế bốn chân”, có ý ám chỉ những con chó, con mèo của người phương Tây được cho ăn mặc chải chuốt bảnh bao. Không biết lãnh đạo truyền thông có quan tâm đến ngôn ngữ thiếu tôn trọng như thế không? Ngày nay, Noel hầu như bị tục hóa. Đối với nhiều người, đây chẳng còn là một ngày lễ tôn giáo, mà chỉ là một lễ hội để vui chơi, xem ca nhạc, dự tiệc linh đình hay đua xe…

 

Bây giờ tôi đã hiểu, tại sao Chúa đã không sinh ra ở những nơi đô thị, hay ở trong những đền thờ, cung điện, mà lại chọn Bê-lem. Người đã không chọn nơi đông người, mà chọn một chỗ thanh vắng nghèo nàn, gần nơi những người chăn chiên cừu trú ngụ. Bởi vì họ là những người nghèo, mà những người nghèo thì thường hay mơ ước. Mơ ước của họ thường khiêm tốn: mơ ước được cơm no áo ấm, được có bạn bè và được yêu thương. Ai sống gần gũi những người này mới biết họ là những người trọng bạn và hiếu khách! Trong thế giới của họ, ngoài đàn vật, những đồng cỏ tốt tươi, hốc đá và thác ghềnh, ánh nắng và trăng sao, thì sự hiện diện của một người bạn là điều quý giá nhất.

 

Chúa nhập thể làm người, ở cùng chúng ta (x. Ga 1,14), để có thể hiện diện, không phải chỉ một cách vô hình, mà hữu hình, bằng xương bằng thịt, khiến chúng ta có thể nhìn thấy tận mắt và tay có thể đụng chạm (x. 1Ga 1,1); và Người cũng có thể yêu thương chúng ta cách cụ thể, bằng cách ghé mắt thương tình, nghe những lời thống khổ, xoa dịu và chữa lành những vết thương đau của chúng ta.

 

Sau khi về trời, Người vẫn tiếp tục hiện diện hữu hình giữa chúng ta, bằng Lời của Ngài, bằng bí tích Thánh Thể, và nhất là bằng Thân Thể mầu nhiệm của Người là Hội Thánh. Vì thế, sứ vụ của chúng ta là nối tiếp mầu nhiệm Nhập thể để hiện diện nhân danh Chúa Kitô, với Chúa Kitô giữa thế giới, nhất là giữa những người nghèo khổ, đau yếu tật nguyền.

 

Hiện nay, khắp nơi trên thế giới vẫn còn nhiều người mắc bệnh phong cùi, vẫn còn đầy dẫy những trẻ thơ đang bị các Hêrôđê thời đại giết hại bằng nhiều cách, và biết bao người bị phân biệt đối xử vì màu da, sắc tộc, tôn giáo…Họ đang chờ đợi chúng ta đến, ở lại, đồng cảm và đồng hành với họ. Nỗi chờ mong Đấng cứu thế đến giải thoát họ đã kéo dài từ nhiều năm tháng, từ nhiều thế kỷ qua. Họ đang cùng chúng ta hát bài ca của Mùa Vọng:

 

“Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương

 Mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính

 Đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ

 Đồng thời chính trực sẽ vươn lên” (Is 45,8).

 

Một cách ẩn dụ, sương, mưa là tình thương, là ân sủng của Thiên Chúa vẫn ban cho con người. Nhưng đất có mở ra để cho ơn cứu độ có thể nẩy mầm, và chính trực có thể vươn lên, điều đó còn tùy thuộc ở mỗi chúng ta có muốn mở rộng tấm lòng và bàn tay của mình hay không.

 

Bởi thế, trong mùa Giáng Sinh, chúng ta hân hoan đón mừng Chúa đến. Chính Chúa cũng đang đón chào chúng ta, và chúng ta đón chào lẫn nhau. Đặc biệt là đón chào những anh em nghèo khổ, đau yếu, tàn tật đang chờ đợi bàn tay săn sóc, yêu thương và chia sẻ của chúng ta. Họ chính là Đức Giêsu đang chờ đợi chúng ta, họ cũng chính là Đức Giêsu đang đến với chúng ta. Khi chúng ta chờ đợi anh em hay đến với họ, là chúng ta đang chờ đợi và đến với chính Chúa Giêsu.

 

 

 

 

NGUYỆN ƯỚC ĐÊM GIÁNG SINH      

                                                                                     

Giáng sinh về rồi bạn ơi!

Lắng nghe trần thế khắp nơi vui mừng

Muôn người tấc dạ lâng lâng

Thiên cung nhạc thánh tưng bừng hòa vang

Ước mong ánh sáng Thiên Đàng

Chiếu soi nhân thế thoát ngàn sầu thương

Bình an, hạnh phúc miên trường

Vinh danh Thiên Chúa mến thương con người! 

 

M. Zéro

 

 

 

 

TƯỢNG HÀI NHI KHÔNG PHÉP

                                                                                                                                 

Phiêu Du

 

Một buổi chiều trong Đan Viện, tôi đứng nhìn bầu trời. Tôi đăm chiêu dõi theo những đám mây còn vương chút nắng chiều lững lờ trôi vô định trên bầu trời bao la, nơi đó những chú chim đang tự do bay lượn. Bỗng có làn gió nhè nhẹ thổi, tôi cảm thấy chút se lạnh của tiết đông, làm tôi chợt nhận ra rằng mùa Giáng Sinh cũng sắp đến.

 

Tôi nhớ lại những mùa Giáng Sinh đã đi qua đời tôi, nhớ những kỷ niệm yêu dấu nơi quê nhà Miền Trung xa xôi, nơi tôi được sinh ra; nhớ những lần cùng với lũ bạn tung tăng đi xem đèn ông sao, hang đá trong những đêm đông lạnh giá. Rồi biết bao kỷ niệm thân thương với gia đình chợt ùa về trong sâu thẳm ký ức tôi.

 

Thời gian thấm thoát thoi đưa, mới đó mà đã hơn mười năm tôi không được đón Giáng Sinh ở quê nhà. Hồi tưởng lại tất cả những ký ức, làm tôi thấy khóe mắt cay cay, những giọt nước mắt dường như được vắt tròn, lăn dài trên má. Tôi nhớ lắm những kỷ niệm mỗi dịp Giáng Sinh khi được nhận những bộ quần áo mới mẹ mua cho... Những kỷ niệm ấy, trong khoảnh khắc này, như sống lại một cách mãnh liệt trong tôi, làm tôi không thể kìm được cảm xúc. Tôi vội đi vào phòng lấy những chiếc hộp đựng những kỷ vật của tôi, những kỷ vật mà mỗi khi buồn hay nhớ nhà, tôi thường lôi chúng ra xem.

 

Tôi mở chiếc hộp ra, cố hồi tưởng những kỷ niệm trên từng kỷ vật một, lúc này tôi giống như một người mất trí cố tìm về ký ức của mình sau bao nhiêu năm đánh mất. Chăm chú nhìn từng kỷ vật, bỗng mắt tôi chăm chú dừng lại trên tượng hài nhi nhỏ nhắn, trông thật dễ thương, đang nằm yên trong hộp; đó là tượng Hài Nhi Giêsu, sau lưng tượng có khắc hàng chữ “Kỷ niệm Noel 2009”. Tôi cầm tượng hài nhi trong tay, cố lục lọi mớ ký ức lộn xộn để nhớ lại được phần nào chút kỷ niệm về tượng hài nhi này. Cuối cùng, tôi cũng lôi được nó ra trong mớ ký ức hỗn độn kia. Tượng hài nhi này được anh trai tặng, lúc tôi đến Dòng Chúa Cứu Thế thăm anh nhân dịp Giáng Sinh. Tôi nhớ không nhầm là tượng hài nhi này chưa được làm phép, vì anh mua ở nhà sách, lúc dẫn tôi đi thăm quan và tôi giữ nó luôn cho đến bây giờ.

 

Tôi nâng niu đặt tượng hài nhi trong tay rồi nhìn ngắm, tôi thấy một hài nhi dễ thương với đôi mắt tròn và nụ cười thật tươi, được quấn trên mình chiếc tã đơn sơ. Tất cả những gì tôi thấy, tôi cảm nghiệm được từ nơi tượng hài nhi này, chính là hình ảnh của Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Ngài đã đến thế gian trong đêm đông lạnh giá, giữa cánh đồng hoang vắng. Ngài được sinh ra nơi hang bò lừa: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12). Tôi thấy một mầu nhiệm khôn dò bao bọc tôi, Người là Thiên Chúa tôi hằng tôn thờ, một Thiên Chúa quyền năng, thế mà Người lại sinh hạ trong cảnh nghèo nàn thế sao? Quả thật tôi phải mượn lời thánh Augustino mà thốt lên rằng: “Người tạo dựng nên con cách lạ lùng, nhưng Ngài cứu chuộc con còn lạ lùng hơn nữa”. Thật vậy, thời gian như ngưng đọng. Không gian trở nên linh thánh.

 

Tôi nhìn tượng hài nhi không rời mắt, rồi tôi lại tự vấn chính mình: đây chính là Thiên Chúa mà tôi hằng tôn thờ sao? Sao Ngài lại xuống trần gian trong cảnh nghèo hèn quá đỗi? Khí sưởi ấm Ngài là hơi thở của bò lừa, chiếc nôi êm ái chính là máng cỏ, cung điện Ngài là hang đá đơn nghèo; nhưng đó chính là Thiên Chúa của tôi, Ngài đã tạo dựng nên cả vũ trụ này. Thế nhưng, Ngài đã hạ sinh trong cảnh đơn hèn, để đồng cảm và mang đến niềm vui, sự an ủi cho những người nghèo khổ, và là nguồn bình an cho người công chính, như các thiên sứ đã loan tin: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2,14).

 

Tôi vẫn đăm đăm nhìn vào tượng hài nhi. Chỉ là tượng hài nhi không phép nhưng thật sự đã có khả năng biến đổi cả tâm hồn chai cứng, nguội lạnh của tôi, làm bùng cháy ngọn lửa đức tin đang leo lét trong tôi. Nó tựa như một tia sáng có sức xuyên thấu tâm hồn, làm cho tôi bừng tỉnh, để rồi tôi thấy thật may mắn và hạnh phúc khi được làm con Thiên Chúa, được Ngài yêu thương bằng tình yêu nhiệm lạ… bấy nhiêu thôi đủ để tôi cảm nhận hạnh phúc quá dâng trào.

 

Chỉ một chút thời gian ngắn ngủi như vô tình lắng đọng, để tôi chiêm ngắm và chìm đắm trong nhiệm mầu nhập thể, giáng thế của Con Thiên Chúa. Ngài đến như Mục tử đưa chiên về ràn, Ngài vác chiên lạc trên vai, và tôi cảm nhận được, Ngài cũng đang vác chính tôi. Ngôi Lời nhập thể trong sự đơn hèn nơi hang bò lừa, để rồi trở nên Vị cứu tinh, Ngài là vị Mục tử đi tìm tôi, tìm nhân loại băng qua gai góc và sa mạc của cuộc đời, như có lời đã chép: “Con nào bị mất Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật Ta sẽ làm cho mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34,16). Nhờ Ngài vác tôi trên vai, tôi có thể được trở về nhà. Ngài đã ban cuộc sống cho tôi và như người cha nhân hậu, đã khoác lên tôi tấm áo tình thương mà chính Ngài ban tặng.

 

 

 

 

LỜI RU

 

À ơi, nghe tiếng ru hời

Mẹ ru con ngủ giữa trời tuyết sương

Thương con Chí Ái khiêm nhường

Nằm nơi máng cỏ không giường không chăn!

Ngắm sao gió lạnh trên ngàn?

Mẹ đem thân Mẹ làm màn che sương

Cho con giấc mộng thiên đường

Giữa nơi trần thế trăm đường thương đau

À ơi, con ngủ canh thâu!

Thuận theo, làm trọn nhiệm mầu ý Cha

Thương con bé bỏng ngọc ngà

Đã mang Thiên mệnh Sơn Hà nặng vai

Ru con ngủ suốt canh dài

Trong vòng tay Mẹ con hoài vui tươi

Mẹ yêu con nhất trên đời!

Con là tất cả của người khổ đau.

 

M. Zéro

 

 

 

 

HÌNH ẢNH HÀI NHI GIÊSU TRONG TÔI

                                                                                                                                   

M. Matthia

 

Cứ mỗi độ Noel về, tâm hồn tôi cảm thấy hân hoan, vui mừng. Không khí chung quanh nhộn nhịp hẳn lên. Từng giáo xứ, giáo phận bắt đầu lên chương trình để mừng kỷ niệm ngày sinh nhật của Ngôi Hai Thiên Chúa. Với quan niệm của nhiều người, ngày lễ Noel chỉ là một lễ hội không hơn không kém. Còn riêng tôi, - một người Công giáo - đây là sự kiện trọng đại, giây phút Ngôi Lời Thiên Chúa đi vào lịch sử trần gian, Đấng cứu nhân độ thế đã đến, làm cho ứng nghiệm những lời tiên báo của các tiên tri và các ngôn sứ trong Cựu Ước.

 

Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người trong hình hài một ấu nhi nhỏ bé. Hoàn cảnh Hài Nhi Giêsu được sinh ra cũng khác xa với hoàn cảnh của nhiều người. Hài Như được sinh ra trong hang bò lừa, nghèo nàn thiếu thốn và trong một đêm đông giá lạnh. Ngài chọn máng cỏ làm nôi, chọn hang bò lừa làm nơi cư ngụ, điều đó làm tôi tự hỏi: Ngài là một quân vương, tại sao lại được sinh ra trong hoàn cảnh như vậy, chứ không phải được sinh ra nơi quyền quý cao sang, được kẻ hầu người hạ? Tại sao lại có cảnh tượng bi đát như thế? Phải chăng con người quá vô tâm, vô cảm? Họ không biết ngày giờ Chúa viếng thăm, cũng chẳng biết Đấng cứu thế đã hạ sinh?

 

Khác với Hài Nhi Giêsu, tôi được sinh ra trong một mái nhà ấm cúng, tuy không đủ tiện nghi, nhưng cũng không đến nỗi thiếu thốn. Sự hiện diện của tôi trong cuộc đời là niềm vui và niềm hạnh phúc của cha mẹ, anh chị em và những người thân quen. Thế nhưng, Đấng Cứu Thế sinh ra, “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Lạ thay, trong khi bị “người nhà” khước từ, Ngài lại được ba vị vua từ phương đông đến bái lạy, nhờ ngôi sao lạ dẫn đường. Không những thế, họ còn lấy những thứ quý giá nhất trên đời như vàng, nhũ hương và mộc dược để dâng tiến cho Hài Nhi.

 

Tại sao một đứa trẻ mới được sinh ra lại được những đặc ân thư thế? Đó không phải là sự ngẫu nhiên, nhưng là do ngôi vị của Ngài, vì Ngài là Con Thiên Chúa, ngày sinh của Ngài cả trên trời dưới đất phải hát lên rằng:

 

                      “Vinh danh Thiên Chúa trên trời

                      Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14).

 

Vì tình yêu, Con Thiên Chúa đã tự hạ mình, từ bỏ cuộc sống Thiên Đàng, nhập thể giáng thế để cứu chuộc nhân loại. Trong tâm tình mừng ngày sinh nhật của Hài Nhi Giêsu, tôi nhìn lại trong cuộc sống vẫn còn rất nhiều hài nhi giống như Ngài, chúng đang bị xã hội bỏ rơi. Những đứa trẻ phải sinh ra đâu đó trong cảnh nghèo nàn và thiếu thốn trăm bề… các em đang cần được sự quan tâm chăm sóc của chúng ta. Vì vậy, mỗi người hãy ý thức nhìn lại mình đã làm gì được cho Chúa Hài Nhi qua những đứa trẻ bất hạnh đó. Trong mùa Giáng Sinh năm nay, tôi mong tất cả chúng ta, thay vì trang hoàng hang đá, đèn điện...tốn kém, hãy trích một phần nào đó để giúp đỡ những trẻ em bất hạnh đó. Để không những chúng ta được đón Giáng Sinh trong niềm vui và bình an mà còn biết trao ban cho những ai đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta.

 

Ngày Giáng Sinh cũng là ngày gia đình đoàn tụ sum họp, ước gì tất cả những người đang ly tán, có cơ hội trở về với gia đình. Vì không có gì quý hơn tình thân gia đình, đó là cái nôi đưa mỗi người vào đời.

 

Lạy Hài Nhi Giêsu, con xin dâng lên những cọng rơm, lá cỏ góp phần làm nôi ấm cho Ngài; đồng thời dâng lên Ngài những dòng chữ viết đơn sơ nhưng với tất cả lòng yêu mến biết ơn của con, vì những ơn lành mà Hài Nhi đã ban cho con trong cuộc đời. Xin cho con có tấm lòng rộng mở, luôn sàng giúp đỡ tha nhân. Dù cuộc sống có yên bình hay bất trắc thì xin cho con luôn biết ý thức có Hài Nhi đồng hành trên bước đường dương thế. Xin Ngài hãy bước đi cùng con, bảo vệ và che chở con, để con bớt phạm lỗi lầm, để mỗi giây phút trôi qua, con luôn cảm nhận được sự nồng ấm của tình yêu Ba Ngôi đổ tràn trong tâm hồn non yếu của con.

 

 

 

 

Giáng Sinh thanh bần

                                                                                  

Năm xưa cha mẹ Hài Nhi

Tìm về quê quán thực thi luật đời

Lê chân gõ cửa bao người

Không ai thương giúp Chúa Trời dừng chân

Đêm đông không chỗ nương thân

Tìm nơi hang đá thanh bần sinh con

Tấm lòng thân mẫu héo hon

Nhìn con thơ dại ngủ ngon an lành

Nằm trong máng cỏ hôi tanh

Chiên bò sưởi ấm mong manh phận người

Ngày nay bao kẻ trên đời

Đang tâm từ chối Con Trời viếng thăm

Tâm hồn băng giá lạnh căm

Làm sao có thể an tâm trong lòng?

Đời người rong ruỗi long đong

Nơi đâu bến đỗ, quan phòng yêu thương

Tìm về bên Chúa tựa nương

An bình thư thái miên trường phúc ân.

 

M. Newman

 

                                            

 

 

BÌNH AN CỦA HÀI NHI GIÊSU

 

M. Clemente

 

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 3,14) là lời ca được các thiên thần hát vang trong đêm Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần. Đó vừa là lời loan tin, đồng thời cũng là lời chúc bình an cho mọi người dưới thế. Vâng, ai ai trong chúng ta cũng mong muốn cho bản thân, gia đình, cộng đoàn...được bình an. Vậy, bình an là gì mà mọi người đang tìm kiếm?

 

Ngày nay, cuộc sống đầy xáo trộn và vì lòng tham, ích kỷ, dễ làm cho con người mất bình an. Cái tôi của nhiều người cũng như của tập thể quá lớn, muốn bắt cả thiên hạ phải phục tùng mình. Nhiều quốc gia lớn như: Trung quốc, Triều Tiên, hay nhóm hồi giáo IS..., và đặc biệt hơn, tại Việt Nam, nhà cầm quyền có những chính sách không rõ ràng, lấy đất, lấy nhà của dân mà không đền bù thỏa đáng; bắt giam, đánh đập những người yêu nước, những người nói lên tiếng nói lương tâm...Những thực trạng như thế là nguyên nhân làm tâm hồn chúng ta bất an.

 

Ở khía cạnh gia đình, cha mẹ mong muốn cho con cái luôn được bình an, nhất là những người con đi xa vì công việc hay học tập. Các cặp vợ chồng mong muốn cho nhau được bình an trong công việc và mong mọi sự xuôi thuận cho gia đình. Anh em, bạn bè cũng luôn cầu mong cho nhau được bình an. Khi có người nào đó đi xa, họ luôn dành nhiều lời chúc tốt đẹp như: Chúc thượng lộ bình an, chúc bình an vô sự. Tắt một lời, dù là ai, sống ở đâu, làm việc gì cũng luôn cầu mong được bình an ngự trị trong tâm hồn và được bình an hiện diện trong mọi sinh hoạt của cuộc sống.

 

Nếu trong cuộc sống, mọi người luôn cầu mong được bình an, thì những Kitô hữu cũng vậy. Hơn ai hết, mỗi Kitô hữu mong muốn được bình an, mạnh khỏe để làm việc, để vui sống và để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Trong thánh lễ, các linh mục cầu chúc bình an cho các tín hữu: Bình an của Chúa ở cùng anh chị em, và kêu mời họ hãy chúc bình an cho nhau. Khi Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin mừng, Ngài dạy các ông chúc lành và chúc bình an cho những người ở thành mà các ông đặt chân đến. Bằng nhiều cử chỉ, người ta trao ban và cầu chúc bình an cho nhau như: cúi đầu chào nhau, bắt tay, ôm hôn... Đặc biệt, hàng ngày, các Kitô hữu cầu nguyện cho nhau được bình an, đất nước được thái hòa, mọi người sống trong sự ấm no và hạnh phúc.

 

Thế nhưng, những lời cầu chúc và ước muốn đó cũng sẽ qua đi và không thành sự thật, nếu không có Thiên Chúa là nguồn bình an và chính Ngài là nguồn bình an đích thực, ban cho: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (Ga 14,27). Đức Giêsu, Đấng trao ban bình an cho nhân loại đã được các ngôn sứ loan báo: “Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu chúng ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là cố vấn kỳ diệu, thần Linh dũng mãnh người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình” (Is 9,5). Vương quốc bình an dưới quyền cai trị của Thủ Lãnh hòa bình được ngôn sứ Isaia mô tả:

 

“Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ.

Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau,

một cậu bé sẽ chăn dắt chúng.

Bò cái kết thân cùng gấu cái,

con của chúng nằm chung một chỗ,

sư tử cũng ăn rơm như bò.

Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục,

trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang” (Is 11,6-8).

 

Vì Thiên Chúa là nguồn bình an, nên khi được sống trong vương quốc bình an ấy, cả Vịnh gia cũng đã thốt lên: “Thư thái bình an vừa nằm con đã ngủ, vì chỉ có mình Ngài, lạy Chúa, ban cho con được sống yên hàn” (Tv 4,9).

 

 Trẻ thơ, vị Thủ Lãnh hòa bình được ngôn sứ Isaia loan báo chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, Ngài đến, không những đem bình an cho nhân loại, Ngài còn là vị Thiên Chúa ở cùng nhân loại, vì Ngài là Đấng Emmanuel (x. Mt 1,23).

 

Giáng Sinh về, đây là giây phút cho chúng ta có cơ hội được thêm một lần nữa chiêm ngắm hang đá Bê-lem, nơi Hài nhi Giêsu giáng trần, tuy nơi đó đơ sơ, khó nghèo, lạnh lẽo về tiết trời, nhưng lại đầy tình yêu thương, đầm ấm của tình gia đình và chính nơi hang đá, mọi người cảm nếm được bình an, bình an mà chính Đức Đức Giêsu đổ đầy vào tâm hồn mỗi người, để mỗi người cùng hòa chung với các thiên thần cất tiếng ca mừng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.     

 

 

 

 

 

LÁ THƯ TỪ THIÊN ĐÀNG

 

 M. Martin

 

Ôm một xấp giấy tờ trong tay, ông già Noel từ Thiên Đàng bước ra, thánh Phêrô đang đứng ngay cửa, ngài tiến lại và bắt chuyện:

 

- “Chào ông già Noel, mỗi mùa Giáng Sinh ông luôn bận rộn, vất vả cho ông quá!”

 

Ông chưa kịp trả lời thì thánh Phêrô đã hỏi tiếp:

 

- “Ủa, tuần lộc của ông đâu rồi, sao không thấy”? Ông già Noel vuốt râu cười rạng rỡ, trả lời:

 

- “À, lúc nãy có mấy thiên thần mượn chín con tuần lộc của tôi để lượn một vòng rồi”!

 

- “Mà này, ông Phêrô, cảm ơn ông đã thông cảm, đúng là mỗi mùa Giáng Sinh tôi bận lắm, phải phát quà cho trẻ em khắp thế giới. Năm nay Chúa Giêsu nhắn tin kêu tôi đến, tôi hồi hộp quá chừng, cứ tưởng công việc của tôi có điều gì làm cho Chúa không hài lòng. Sau khi gặp Ngôi Hai, tôi mới biết, Ngài nhờ tôi một việc, khi tôi đi phát quà Noel dưới trần gian thì ghé Đan viện Phước Lý để gởi một lá thư cho một em tập sinh kia, để coi coi, tôi ghi tên đây này, à, tập sinh Augustin. Tôi định từ chối, xin Ngài nhờ thiên thần bản mệnh hoặc thiên thần nào khác cũng được, tôi bận quá rồi, nhưng thấy Ngài vui vẻ nhờ vả nên tôi nhận lời luôn! Thôi, chào ông Phêrô, tôi đi đây, về còn chuẩn bị qùa Noel cho xong. Mong là năm nay tuần lộc chạy tốt để tôi khỏi lạc đường, mấy con tuần lộc dạo này cứ lạc đường hoài nên tôi mua cái smartphone có google map cho tụi nó xem đường. Chào ông Phêrô nha, tôi về”!!!

 

Chưa kịp bình luận câu nào về chuyện ông Noel vừa kể, thánh Phêrô gãi đầu rồi nhìn ông thủng thỉnh bước ra.

 

Vừa ra khỏi cổng, ông già Noel gặp một nhóm thiên thần Custo, ông hỏi thăm họ:

 

- “Này này các ngài, tôi hỏi chút, bình thường Chúa muốn gởi thông điệp gì cho một ai dưới trần gian, Ngài sai thiên thần bản mệnh của người đó để nói với họ, hoặc là đủ thứ cách khác như xưa giờ Chúa vẫn làm. Mà sao bữa nay Chúa lại viết thư và nhờ tôi giao cho người kia”?

 

Một Thiên thần nhanh miệng trả lời:

 

- “À, đúng, xưa giờ đâu khi nào nghe nói Chúa viết thư, cách Chúa hay làm để nói gì đó với ai thường qua các ngôn sứ, qua Giáo Hội hoặc nói với họ qua giấc mơ, qua chiêm niệm…Lần này mới nghe là Chúa viết thư”!

 

- “Có lẽ người này đã xin điều gì đó làm Chúa cảm động nên đích thân Ngài viết thư ấy mà, không chừng Ngài đang đồng hành thiêng liêng cách riêng cho người này, một vị thánh mới trong tương lai chăng?!”, một thiên thần khác bình luận.

 

- “Ồ ồ, có lẽ vậy…Tôi cứ theo địa chỉ này mà gởi thôi! Mà cũng chưa biết là trong nhà dòng có ống khói không, chẳng biết tôi chui vô ống gì đây??? Chà chà, lần này Chúa “chơi” ông già này rồi, giao nhiệm vụ ngoại thường này làm tôi bối rối quá! Thôi, chào các ngài, tôi đi đây!”. Vừa đi vừa cúi mặt lắc đầu có vẻ lo lắng, ông già Noel về phủ.

 

* * *

 

“Tuần lộc, tuần lộc, thấy rồi nè, Đan viện Thánh Mẫu Khiết Tâm Phước Lý, 377 tổ 8, ấp Thành Công, xã Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch, Đồng Nai, Việt Nam. Tụi con đáp xuống cái chỗ nào rộng rộng, kìa, sân banh, xuống đó đi, Ta vô dãy Tập I gần đó gởi thư xong rồi ra liền!”. Tưởng lạc đường, ai ngờ cũng tới nơi, ông già Noel thở phào nhẹ nhõm!

 

* * *

 

Augustin nhận thư từ tay ông già Noel, lòng vui mừng, vội vàng mở ra đọc, nội dung bức thư như sau:

 

Thiên Đàng, Giáng Sinh 2019!

 

Augustin rất yêu mến! Đức khiêm nhường và lòng chân thành của con vọng lên tới ngai Thiên Chúa. Đức Maria, Thiên thần bản mệnh của con, thánh quan thầy, cùng Nữ tỳ Faustina đã kể với Ta về con và xin Ta trực tiếp viết thư cho con trong mùa Giáng Sinh này. Lâu nay Ta đã biết về lòng khao khát thiêng liêng của con, nay Ta nhận lời chuyển cầu của các ngài nên viết thư cho con.

 

Khi con ở trong nhà nguyện, Ta đã thấy con. Lúc đó con hỏi ta về ý nghĩa lễ Giáng Sinh và tâm sự về cuộc sống của con. Ta biết mầu nhiệm Giáng Sinh sẽ soi sáng ơn gọi cho một tập sinh. Năm nay nhân loại mừng sinh nhật của Ta, rất nhiều lời chúc mừng, tung hô và cầu xin. Ta vui mừng vì còn nhìn thấy bao tâm hồn thánh thiện và để tiếp tục khích lệ nhân loại, Ta đã dùng rất nhiều cách để nói với họ. Riêng con, Ta định sẽ nói với con qua giấc mơ hoặc qua một ai đó, nhưng do con chân thành cầu xin nên Ta trả lời con qua những dòng này.

 

Con đang chuẩn bị mừng Sinh Nhật của Ngôi Hai, con đã tin và đã hiểu mầu nhiệm Nhập Thể chút nào đó rồi, phải không? Đúng vậy, Ta là Thiên Chúa vô hình nhưng đã trở nên hữu hình qua Mầu nhiệm nhập thể, làm người. Vì thế, Ta có thân xác, có trái tim và mọi thứ như con người để có thể lắng nghe, thông hiểu và cảm nhận cách gần gũi hơn với con. Lời cầu nguyện của con với tất cả mọi suy nghĩ và tâm tư được Ta đón nhận, không một suy nghĩ hay cảm xúc nào của con mà Ta bỏ qua. Con đang sống ơn gọi chiêm niệm, đời sống đan tu giúp con ở gần Thiên Chúa hơn bao giờ hết, giống như Maria, em của Martha, con đã chọn phần tốt nhất. Con có quý yêu ơn gọi hiện giờ của con không? Đây là một ơn gọi Ta đã ước muốn dành cho con, Ta không muốn gì hơn ngoài việc con trở nên thân thiết với Ta, và qua đó, con giới thiệu cho anh em con đến gần Thiên Chúa.

 

 

Trong dòng lịch sử, Ta đã thiết lập và gìn giữ ơn gọi đan tu tới tận bây giờ, dòng Xitô của con cũng đã có hơn chín trăm năm, Ta vẫn sẽ tiếp tục kêu gọi các bạn trẻ sống ơn gọi này, và con là một trong những bạn trẻ ấy đã lắng nghe tiếng gọi của Ta. Con vẫn muốn tiếp tục sống ơn gọi Xitô ở Phước Lý này chứ? Ta biết ơn gọi này có nhiều thử thách gian nan, nhưng nếu vượt qua được những thử thách ấy, niềm vui của con sẽ rất lớn lao. Con hãy tin tưởng như thế. Phần thưởng của con sau những hy sinh không gì khác hơn là chính ân tình giữa Ta và con. Con hãy thánh hóa từng khoảnh khắc của cuộc đời dương thế bằng tâm tình chiêm niệm, dù con bận rộn với các việc bổn phận, dù con làm gì đi nữa, nhưng nếu con vẫn sống trong nhà dòng, sống trong nhịp sống đan tu với mọi sinh hoạt ở đó, là con đang cùng anh em con đem niềm vui Thiên Đàng cho nhân thế. Bây giờ con không thể thấy hết những gì con làm qua lời cầu nguyện, sau này con sẽ bất ngờ vì dấu ấn của con trên vũ trụ này qua đời sống đan tu. Từng giờ kinh của con, từng lời nguyện tắt đơn giản đều là cách thức con ướp “chất Trời” cho đời sống. Thời gian vẫn đang qua đi và không bao giờ trở lại, con đừng bỏ lỡ giây phút nào mà quên thánh hóa nó bằng kinh nguyện, vì mỗi giây phút hiện tại của con đều là chất liệu làm nên đời sống vĩnh cửu mai sau của con. Ta biết con vẫn đang ưu tư về những thời khắc trôi qua nhạt nhẽo, đôi khi máy móc; nhịp sống đều đặn của nhà dòng đôi khi gây ra tâm trạng chán ngán và khiến thói lười biếng tập thể lây lan. Nhưng con hãy tin tưởng và tiếp tục giữ các kỷ luật thiêng liêng, chính sự kiên trì sẽ thắng vượt mọi thử thách!

 

Con đã làm hòa với người anh em của con chưa? Tuần trước, Ta biết con bất hòa với một anh em cùng lớp. Con nóng tính, Ta biết; Ta mừng vì con đã kiềm chế kịp thời. Ta muốn nói với con rằng: khi Ta xuống thế, Ta phải chấp nhận mọi quy luật của thế gian, đó là sự tiệm tiến của đời sống. Ta đâu trưởng thành trong một ngày, dù là Thiên Chúa nhưng Ta vẫn phải học hỏi, phải qua thử thách mới trưởng thành. Đời sống của con và các anh em con cũng đâu nằm ngoài những quy luật đó, đúng không? Cho nên những lỡ lầm, những thiếu sót và cả những tội lỗi làm sao các con tránh khỏi, Ta chấp nhận các con với tất cả mọi bất toàn đó. Vì vậy, Ta mong con hiểu rằng: con và anh em con đều là những “hữu thể trong tiến trình”, chúng con sẽ thay đổi từng ngày, sẽ tốt hơn nếu các con có thiện chí. Hãy luôn hỏi chính mình về thiện chí vươn lên, các con hãy luôn để ý về việc “trở thành…” đó.

 

 

Con cứ bình thản và tiếp tục thực hành công bằng và bác ái với anh em, còn những va chạm xích mích của con, Ta sẽ có cách để hàn gắn và biến đổi. Con có thể tiếp tục chấp nhận và hy vọng vào anh em con mà, phải không? Con không thấy đó thôi chứ Ta vẫn thấy sự tiến triển của mọi người, dù là ít ỏi, với Ta như vậy đã tốt lắm rồi. Phần còn lại là thời gian, hãy để thời gian mở ra thêm nhiều cơ hội cho sự thành toàn của các con. Con hãy nhớ rằng: nếu con muốn đi nhanh thì hãy đi một mình, nếu con muốn đi xa thì hãy đi cùng nhau. Con ở trong ơn gọi cộng tu Xitô, hành trình của các con thật dài, Ta muốn các con đi chung với nhau. Con hãy cùng đi với anh em con dù chúng con đôi khi có xung khắc; con cũng bất toàn, nên con cũng phải thông cảm với anh em con, con đang trưởng thành và họ cũng đang lớn lên, con và họ đều đang trên một hành trình. Mỗi người có một điểm xuất phát khác nhau, môi trường gia đình khác nhau, sự giáo dục khác nhau, khả năng khác nhau…con đừng nghĩ con phải hơn ai, chỉ cần nhớ rằng mỗi người đều trong tiến trình, sự tiến triển tối thiểu trong cuộc sống là một niềm hy vọng dẫn đến ngày kiện toàn mai sau. Hãy đón mùa Giáng Sinh này bằng tất cả niềm vui với anh em con, vì Ta cùng ở đó với các con.

 

Khi ta làm người, Ta phải dần dần lớn lên trong thân xác, Ta phải đói bụng, phải khát, Ta phải buồn, phải mệt…Nhưng Ta đã nhận ra rằng: tất cả mọi trạng huống nhân sinh đều nằm trong ý định của Cha Ta và chiếu tỏ sự khôn ngoan Thiên Chúa.

 

Từ khi Chúa Cha sáng tạo nên con người và ban cho nó những phẩm chất quý giá, không chỉ tính thiêng liêng nơi linh hồn mà cả nhân tính cũng đầy giá trị, nhưng tội lỗi đã làm băng hoại phẩm giá đó. Vì thế, khi Ta nhập thể, một lần nữa Ta cùng Chúa Cha thánh hóa con người, tìm cách trả lại cho con người giá trị ban đầu như lúc được tạo dựng.

 

 

Ta trách con đã chưa trân trọng bản thân cho đủ, khi con không tôn trọng chính mình là lúc con đang coi thường công trình của Chúa Cha và sự cứu độ của Ta. Ta đã từng nói: con người sống không chỉ nhờ cơm bánh mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra, nên Ta đâu có ý bảo con khỏi ăn khỏi uống! Ta có nói: phúc cho ai bỏ mạng sống mình vì Ta, Ta đâu có ý bảo con coi thường tính mạng hay mặc kệ thân xác. Dù đời sống thiêng liêng và các thực tại vĩnh cửu là điều con mong mỏi, nhưng đừng quên là chân con đang chạm đất! Ta kêu gọi con hướng về trời cao nhưng Ta không bảo con coi thường các thực tại trần thế. Ta dạy con siêng năng khổ chế, ưa thích hãm mình nhưng không có nghĩa con phải phạt xác làm hao mòn bản thân.

 

 

Ta muốn con hiểu rằng khi Ta làm người, Ta đã thánh hóa con người. Ta đã tập luyện để sống trọn vẹn từng cấu tố của con người từ thể lý đến tâm lý và tâm linh. Con cũng hãy sống như thế, phải chú ý đến mọi diễn biến trong con người của con. Tuy con đang hướng về trời cao nhưng đừng quên làm cho cuộc sống nên tốt đẹp, khởi đi từ bản thân con. Mừng mầu nhiệm Nhập Thể, con hãy nhớ về một Thiên Chúa làm người, có Thiên Tính mà cũng có cả nhân tính như con. Con đừng xem nhẹ các thói quen nhân bản, đừng phớt lờ những trạng thái của con tim, mọi khía cạnh của đời sống hiện tại của con đều dự phần vào vinh quang vĩnh cửu, lẽ nào con lại bỏ bê thân xác mình sao? Một lần nữa Ta mong con nhớ rằng: hãy trân trọng bản thân và làm cho con người của con tiến triển trong ý định của Thiên Chúa bằng cách thánh hóa cuộc sống hiện tại. Ta đã giáng thế để đem lại ơn cứu độ, đồng thời Ta cũng “khai mở một cách thức hiện sinh nhân bản mới”, Ta mời gọi con đi vào con đường hiện sinh của mình bằng những giá trị nhân bản: sức khỏe, các nhu cầu, các giá trị, những tương quan…Con hãy lưu ý đến nhân bản, những thói quen tốt lành và cả đời sống thiêng liêng của con nữa, chúng sẽ là những điểm khởi đầu giúp con sống tốt hơn trong tương quan với Ta và với anh em. Đừng quên nhé, con yêu của Ta!

 

Năm nay con không được liên lạc với bên ngoài, kể cả gia đình, con có buồn không? Tạm gác lại mọi bận tâm về gia đình huyết thống, Ta muốn con chiêm ngắm một gia đình khác, nơi cất giữ nhiều mầu nhiệm thiêng liêng: “Bí mật Nazareth!” Suốt ba mươi năm trong gia đình tại làng quê Nazareth, Ta sinh sống trong cô tịch, không hề có một sự kiện nào nổi bật, không có những phép lạ cả thể, tất cả đều âm thầm lặng lẽ. Nhưng con biết không, ở đó gia đình Ta lao động, đọc kinh, tương quan với mọi người trong tình yêu thương của Bố Giuse, của Mẹ Maria. Trong cuộc sống bình dị đó mà Thiên Chúa Ngôi Hai đã sống, đã lớn lên và chuẩn bị tất cả cho việc rao giảng Nước Trời sau này. Đời sống đan tu của con cũng vậy, trong sự âm thầm chiêm niệm, kiên trì với những sinh hoạt đan tu mà chúng con nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong thiên nhiên, trong tha nhân, trong phụng vụ và trong tâm khảm. Nơi cảnh âm thầm Nazareth ấy cất giữ những bí mật: bí mật của âm thầm chiêm niệm, bí mật của khổ chế hy sinh, bí mật của ân cần san sẻ, bí mật một Thiên Chúa làm người ở giữa mọi trạng huống nhân sinh và thánh hóa thời gian trần thế. Ta mời gọi con sống cảnh âm thầm như gia đình Nazareth, nơi con phải lao động, nơi con phải nguyện cầu, nơi con học hành, nơi con trung thành âm thầm chiêm niệm, tất cả những điều đó sẽ dẫn con đến ngày chiêm ngưỡng sự hiện diện khiêm hạ của Ta và chuẩn bị cho con mọi thứ để đến ngày được cứu độ. Con hãy dần dần khám phá những bí mật nơi Thánh Gia Nazareth trong chính ơn gọi Xitô của con, mọi bước tiến nhỏ nhoi, mọi hy sinh lặng lẽ đều làm Thiên Chúa vui thích.

 

 

Điều cuối cùng Ta muốn tâm sự cùng con cũng là điều Ta mong mỏi. Dù Ta đã giáng sinh, dù Ta đã về Trời, nhưng Ta vẫn còn tiếp tục “nhập thể” mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi giây phút qua chúng con. Chính Lời Chúa và Thánh Thể là phương tiện để Ta tiếp tục “giáng sinh”. Khi con đón nhận Lời Ta và Mình Máu Ta là lúc qua con Ta đi vào cuộc đời, để Ta có thể chạm đến nhân loại qua lòng trắc ẩn và qua hành động của con. Mỗi sáng con nghe Lời Chúa và rước lễ, con đang mang Ta vào cuộc đời con, và qua con Ta đi vào cuộc đời anh em thân cận. Con đừng quên điều đó, coi như Ta nhờ con, con hãy giúp Ta tiếp tục „nhập thể“. Hãy để biến cố Giáng Sinh được tái diễn mỗi ngày trong cuộc sống của con!

 

Mừng Sinh nhật của Ta năm nay, Ta vui mừng vì có thể tâm sự với con trong gắn kết thiêng liêng. Ta ước mong những gì trong cuộc đời của Ta có thể soi sáng cuộc đời của con. Lễ Giáng Sinh là sự kiện Thiên Chúa làm người, mầu nhiệm ấy chất chứa bao ý nghĩa, Ta mong con nhớ: Thiên Chúa đã làm người, hiện diện giữa cuộc đời, để cứu đời nên con hãy sống trọn vẹn cuộc sống trần thế của mình, hãy sống dồi dào như những gì đã được hứa ban. Con hãy cùng với Ta tiếp tục “nhập thể” qua từng ngày sống, con hãy cùng Ta thực hiện ước mơ của Thiên Chúa: ở cùng nhân loại – Emmanuel.

 

PS: Ta chưa từng viết thư bao giờ và cũng chưa từng để ai biết nét chữ của Thiên Chúa. Vì thế sau khi đọc bức thư này, những tâm tư mà Ta vừa thổ lộ với con sẽ đi vào tâm thức của con, trở nên đường hướng thiêng liêng cho con, còn bức thư sẽ tan ra và hòa vào tất cả những cuốn sách mà con đang hoặc sẽ đọc. Ước mong những điều Ta đã nói với con, con hãy nói lại với anh em, nếu con có cơ hội gặp gỡ họ. Chúc con mùa Giáng Sinh bình an!

 

Thiên Chúa của con

Dominus Iesus

 

 

_____________________________________________________________

 

 

[1] x. FX Vũ Phan Long OFM, Các bài Tin Mừng Gioan dùng trong Phụng vụ, Nxb Tôn giáo 2014, tr. 21.

[2] x. Johannes Beutler, Das Johannesevangelium, Kommentar, Herder 2013, tr. 78.

[3] Điển ngữ thần học Thánh kinh, A-L 1973, bản dịch của Phân khoa thần học giáo hoàng học viện thánh Pio X, Đà Lạt - Việt Nam, tr. 404.

[4] Joseph Ratzinger, Đức Giêsu thành Nazareth, Phần III, Nxb Tôn giáo 2013, tr. 23.

[5] x. Joseph Ratzinger, Sđd, tr. 24.

[6] x. Joseph Ratzinger, Sđd, tr. 25.

[7] x. Klaus Berger, Kommentar zum Neuen Testament, Gütersloher Verlagshaus 22012, tr. 324.

[8] x. Lm. Vinh Sơn Đinh Trung Nghĩa, S.J., Văn Chương Joan - Giáo trình phúc âm Gioan, Anton & Đuốc Sáng 2015, tr. 60.

[9] x. Lm. Vinh Sơn Đinh Trung Nghĩa, S.J., Sđd, tr. 51-52.

[10] x. GLHTCG, 2012, số 390.

[11] x. GLHTCG, 2012, số 405.

[12] ĐGH Gioan Phaolô II (Giáo lý dựa trên kinh tin kính), Thiên Chúa là Cha và là Đấng tạo thành, chuyển ngữ: Nguyễn Đức Tuyên, Ngưỡng Nhân Lưu Ấu Nhi 2007, tr. 165.

[13] x. Lm Vinh Sơn, Những Giao ước (của Thiên Chúa với con người và những quyền lợi căn bản của họ), Nxb Tôn giáo 2009, tr. 117.

[14] x. Kinh Thánh Tân Ước, Nhóm phiên dịch các giờ kinh phụng vụ, Nxb Tp. HCM 1996, tr. 301.

[15] Hạt giống chiêm niệm (Nội san linh đạo đan tu); Niềm vui Phúc Âm, số 15, 2014, tr. 10.

[16] x. Lm. Hoàng Minh Tuấn, Đọc Tin Mừng theo Gioan (tập II), Nxb Tôn giáo 2000, tr. 146.

[17] x. Kinh thánh tân từ điển, Nxb Phương Đông 2009, tr. 1229.

[18] Lời Chúa cho mọi người, Nxb Tôn giáo 2008, tr. 1807.

[19] x. Kinh Thánh Tân Ước, Bản dịch có hiệu đính của CGKPV, Nxb Tôn giáo 2008, tr. 374.

[20] x. Hoàng Đắc Ánh, Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan, Tin, Mai Khôi 2004, tr. 74-75.          

[21] William Barclay, Tin Mừng theo thánh Gioan, Nxb Tôn Giáo, 2008, tr. 32.

[22] Vũ Văn Thiên, Có Chúa trong đời, Nxb Tôn giáo 2011, tr. 18.

[23] Giuse Phạm Văn Tuynh, O.P, Theo Chúa Kitô, Quyển 2, Tập 1, tr. 55-56.

[24] x. ĐGH Phanxicô, Tông huấn “Evangelii Gaudium”, số 4.

[25] Mgr. Gérard Huyghe, Những con đường của Chúa Thánh Thần, Nxb Tôn Giáo 2008, tr. 52.

[26] Josheph Ratzinger, Đức Giêsu thành Nazareth, Phần I, Nxb Tôn Giáo 2013, tr. 125-126.

[27] Lm. Phêrô Trần Ngọc Anh, Nhân học Kitô Giáo, Tập II: Tội nguyên tổ và ân sủng, 2015, tr. 176.

[28] x. Dom Columba Marmion, Đức Kitô nguồn sống, 1917, tr. 55-56.

[29] Quê Hương và Lô Bảo, Hội đồng Chủ tịch Đại năm thánh 2000, Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ duy nhất (Jésus - Christ unique Sauveur du monde), tr. 152-153.

 

 

Thiết kế Web : Châu Á